Showing posts with label Đặng Phong. Show all posts
Showing posts with label Đặng Phong. Show all posts

Saturday, 29 September 2012

Cải cách ở Trung Quốc và Đổi mới ở Việt Nam - China’s Reform vs. Vietnam’s Doi Moi

(The article below was written in September 2009. Please scroll down for the English translation.)

Vào dịp 60 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa (1949-2009), báo chí Trung Quốc đã có những bài viết về thành tựu phát triển đất nước, trong đó nhắc tới sự thành công của mô hình kinh tế kiểu Trung Quốc.

Chưa có một định nghĩa cuối cùng, nhưng các học giả Trung Hoa cũng như phương Tây đã bàn nhiều về mô hình phát triển Trung Quốc. Những từ thường được dùng để mô tả nó là: cải cách, mở cửa, thử nghiệm, chuyển đổi từ bên trong, tiến bộ từng bước, Nhà nước định hướng mạnh, tăng trưởng kinh tế, và ổn định chính trị.

Sự so sánh để tìm những tương đồng và khác biệt giữa mô hình Trung Quốc và Việt Nam không phải vấn đề bây giờ mới được nhắc tới. Ít nhất thì các nhà khoa học của cả hai nước đã từng tiến hành nhiều hội thảo và thực hiện các công trình nghiên cứu so sánh công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam.

Trung Quốc bắt đầu cải cách từ năm 1978, còn Việt Nam từ năm 1986. So với phần còn lại của thế giới cũng tiến hành chuyển đổi (Liên Xô, các nước Đông Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin), hai nước chia sẻ nhiều điểm chung hơn, chẳng hạn cả hai đều kiên trì con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Điều này khác xa Đông Âu và Liên Xô - là nơi mà, theo chuyên gia lịch sử kinh tế Đặng Phong [1], “đảng Cộng sản chỉ dẫn dắt quá trình chuyển đổi chưa được một nửa con đường, sau đó thì những khủng hoảng chính trị đã làm cho đảng Cộng sản ở các nước đó không còn là người điều hành cuộc chuyển đổi nữa”.

Bên cạnh đó, nội dung đổi mới ở Việt Nam và cải cách ở Trung Quốc còn giống nhau ở một số điểm lớn, như: đa dạng hóa cơ cấu sở hữu (chuyển sang kinh tế nhiều thành phần); mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh sản xuất hướng về xuất khẩu, v.v.

Chính sự tương đồng đó, cùng với việc Việt Nam tiến hành đổi mới sau Trung Quốc 8 năm, đã làm nảy sinh nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam sao chép mô hình phát triển của Trung Quốc. Gần đây, khi nhìn lại sự thành công của mô hình này, tờ Nhân Dân Nhật Báo số ra ngày 18 tháng 9 năm 2009 có bài viết nhận định Việt Nam là trường hợp “sao chép toàn diện và thành công nhất mô hình Trung Quốc”.

Sự thực thì có tương đồng gì giữa mô hình Trung Quốc và phát triển kiểu Việt Nam?

Cùng một thứ thuốc trị bệnh…

Nói cho đúng thì trong những năm đầu của công cuộc chuyển đổi, Việt Nam và Trung Quốc không ai sao chép ai, mà cả hai đều thực hiện những “phương thuốc” nhỡn tiền phải dùng để chữa trị “căn bệnh” chung. Căn bệnh đó, với các triệu chứng như tập trung bao cấp, sở hữu toàn dân và tập thể, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…, xuất phát từ việc sao chép mô hình của Liên Xô.

Ông Đặng Phong có một so sánh hài hước: “Tóm lại là cả hai đều ăn ổi xanh, ăn ổi xanh thì đều táo bón, tức là đời sống khó khăn, kinh tế đi xuống, bế tắc, khủng hoảng. Cả hai táo bón thì đều cùng phải uống thuốc”.

Thế rồi, trong quá trình chữa bệnh, cả hai cùng có các phản ứng giống nhau. Ví dụ như nạn vỡ bong bóng tín dụng. Ở Việt Nam giai đoạn đầu đổi mới có tình trạng bể hụi, vỡ quỹ tín dụng. Ở Trung Quốc những năm 1992-1993 cũng xảy ra việc hàng loạt ngân hàng phá sản.

Sau này, hai nước lại tiếp tục chứng kiến bong bóng chứng khoán, méo mó trên thị trường bất động sản, sự phình to và hoạt động không hiệu quả của khối quốc doanh… Về mặt xã hội, cả hai đều phải đương đầu với các vấn đề gay gắt như tham nhũng tràn lan, bất bình đẳng xã hội mở rộng, bần cùng hóa ở một bộ phận dân cư nông thôn miền núi. [2]

Như vậy, có thể thấy là hai “bệnh nhân” mắc bệnh giống nhau, dùng thuốc giống nhau và cùng trải qua các phản ứng tương tự. Tuy nhiên, do mức độ bệnh và thời gian phát bệnh khác nhau nên liều dùng và thời điểm dùng thuốc của hai “bệnh nhân” lại khác nhau.

Mỗi người dùng một khác…

Nói về mức độ của căn bệnh, thì Trung Quốc “bị” nặng hơn Việt Nam, do nền sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng trong thời kỳ Đại nhảy vọt, Công xã nhân dân và Đại cách mạng Văn hóa. Cạnh đó, ở Trung Quốc kỷ cương rất chặt, Nhà nước quản lý tập trung cao độ, thị trường tự do bị xóa sổ. Trong khi ở Việt Nam, nông dân vẫn còn được 5% đất để kinh doanh sản phẩm phụ, và chợ đen vẫn tồn tại với sức sống rất mãnh liệt, dai dẳng.

Trung Quốc cũng bị đẩy vào tình thế phải cải cách sớm hơn Việt Nam, do không có được “bầu sữa viện trợ” kéo dài như Việt Nam.

“Bệnh” nặng hơn và thời gian “phát bệnh” diễn ra trước nên Trung Quốc dùng “thuốc cải cách” trước và có những khác biệt so với Việt Nam. Ngoài ra, thời kỳ 1978-1986 cũng là khoảng thời gian dài quan hệ hai nước căng thẳng nên sự sao chép, học tập về mô hình cải cách là không thể có.

Sự khác biệt lớn nhất được nhà nghiên cứu Đặng Phong đúc kết trong một câu: “Ta phá rào từ dưới lên, còn Trung Quốc phá rào từ trên xuống”. Trung Quốc đã đi theo con đường từ lý luận tới thực tiễn, từ chỉ đạo của Trung ương tới hành động của địa phương. Sau khi đã có những đột phá về lý luận nhằm giải quyết các bế tắc, Trung Quốc mới cho thực hành. Trong khi đó, Đổi Mới của Việt Nam lại bắt đầu từ những vụ “phá rào” ở cơ sở, sau đó được Trung ương chấp nhận và cuối cùng trở thành chính sách. Ví dụ, chính sách khoán bắt đầu từ những hiện tượng tự phát và làm chui của nông dân, mà lãnh đạo địa phương hoặc đồng ý cho làm và “bao che” trước Trung ương, hoặc lờ đi. Có thể kể tới các vụ phá rào “ngoạn mục” như khoán chui ở Hải Phòng, xóa tem phiếu ở Long An, cơ chế mua cao bán cao ở An Giang, mua lương thực với giá thị trường để bán “cứu đói” cho Thành phố Hồ Chí Minh…

Ông Đặng Phong nhận xét: “Thật ra người Việt Nam đã “phá rào” suốt từ… thời chống Mỹ. Đặc tính của dân mình là vậy, linh hoạt, có khả năng xoay xở cao và rất khó đi vào kỷ cương. Ở Trung Quốc, Nhà nước nghiên cứu bài bản rồi mới quyết định dỡ bỏ hàng rào cũ, lập hàng rào mới. Còn ở Việt Nam ta là dân chúng, địa phương chủ động dỡ bỏ quách hàng rào, chẳng theo lý thuyết nào cả”.

Đổi mới, vì thế, mang phong cách rất Việt Nam.

Có hay không sự sao chép?

Đổi mới ở Việt Nam không phải là sự sao chép mô hình cải cách của Trung Quốc. Tuy nhiên, vào những năm về sau trong công cuộc chuyển đổi, có những quyết sách kinh tế – xã hội của Việt Nam được tiến hành sau và mang nhiều nét tương tự như Trung Quốc. Chẳng hạn như chính sách trao quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho khối doanh nghiệp tư nhân, thành lập thị trường chứng khoán, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước… đều được tiến hành ở Việt Nam sau Trung Quốc vài năm. Việt Nam và Trung Quốc cũng là hai nền kinh tế duy trì vai trò chủ đạo, định hướng phát triển của Nhà nước. Cả hai quốc gia đều thực hiện sở hữu Nhà nước về đất đai, chế độ quản lý chặt chẽ của Nhà nước về tỷ giá hối đoái.

Không thể khẳng định có sự sao chép với chủ ý hay không, nhưng điều chắc chắn là, như trên đã nói, có những phương thuốc chung để hai nước trị các căn bệnh chung. Thêm vào đó, việc một nền kinh tế đi sau tham khảo, học tập hoặc chịu ảnh hưởng từ mô hình của nền kinh tế đi trước là chuyện thường gặp trên thế giới.

Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Đức Thành, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Việt Nam (VEPR), giải thích điều này bằng một ví dụ thú vị: “Trong khoa học về chiến lược, có khái niệm gọi là “hiệu ứng con ngỗng con”. Khi con ngỗng ra đời mà bị cách ly với mẹ, nó có thể tưởng nhà bác học chăm nuôi nó chính là mẹ, và nó sẽ đi theo nhà bác học đó như thể đó là ngỗng mẹ vậy. [3] 

Hiện tượng tương tự xảy ra trong kinh doanh và xây dựng chiến lược phát triển: Các nền kinh tế nhỏ, chậm phát triển, đi sau, rất dễ bị ảnh hưởng, thậm chí sao chép một cách có chủ ý từ nền kinh tế có quy mô lớn hơn, gần gũi mình và đi trước mình, vì nghĩ rằng như thế là tốt, là ưu việt. Việt Nam hiện đại chịu ảnh hưởng nhiều từ Pháp, ví dụ như luật dân sự của Việt Nam áp dụng nhiều điều của Pháp. Trong kiến trúc, chúng ta cũng có xu hướng cho rằng kiến trúc Pháp là đẹp, là sang trọng, tóm lại là ưu việt. Trung Quốc ở gần và có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về thể chế, dễ học, nên Việt Nam có tiếp thu mô hình Trung Quốc cũng không lạ”.

Một học giả gốc Hoa ở Mỹ, Li Tan, cũng từng khái quát hóa mô hình phát triển của tất cả các nền kinh tế đi sau, bao gồm cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, thành sự phát triển dưới định hướng của nhà nước. Li Tan viết: “Mô hình phát triển dựa vào nhà nước sẽ tiếp tục có sức hấp dẫn đối với các nền kinh tế phát triển sau… vì nó cho phép các nước nghèo phát triển nhanh hơn để thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế”.

“Chiến lược đuổi kịp”

“Copy, sao chép không bao giờ là tiêu cực, trừ trường hợp copy một cách mù quáng, nông cạn” – Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành khẳng định. Còn nhà nghiên cứu Đặng Phong nhận xét: “Tôi nghĩ Trung Quốc có những đặc điểm, những chính sách mà nếu Việt Nam học tập được thì tốt quá! Ví dụ như trong chiến lược phát triển, cả hai nước cùng hướng về xuất khẩu, nhưng Trung Quốc đi xa hơn Việt Nam ở chỗ họ lấy nguyên liệu của toàn thế giới để sản xuất hàng hóa bán cho thế giới. Còn Việt Nam ta xúc nguyên liệu của mình đi bán để mua hàng hóa bên ngoài về tiêu xài”.

Nhiều người cũng đánh giá cao quyết tâm chống tham nhũng của chính quyền Trung Quốc, sự nghiêm minh của pháp luật, kỷ cương trật tự, hoặc cơ chế sử dụng nhân sự. Ông Đặng Phong nói: “Phải thừa nhận rằng Trung Quốc đào tạo, sàng lọc và tuyển dụng cán bộ ngày càng tốt hơn. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý của họ thật sự rất cao”.

Một nhà kinh tế khác cũng nói về một số chính sách của Trung Quốc mà Việt Nam nên xem xét tham khảo. Ví dụ chủ trương cho các công ty quốc doanh thuê chuyên gia nước ngoài làm quản lý, trả lương rất hậu hĩnh. Hoặc chủ trương trao quyền tự chủ cho hệ thống trường đại học, khuyến khích việc đầu tư của tư nhân ra nước ngoài…

Cho đến nay, có thể nói Trung Quốc thực sự đã đi theo một mô hình kinh tế thể hiện rất rõ quyết tâm của Nhà nước: tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với sự tương đồng về thể chế chính trị, hoàn cảnh xã hội, nếu Việt Nam có thể áp dụng điều gì từ Trung Quốc, như sự nghiêm minh của hệ thống pháp luật hay cơ chế sử dụng nhân sự cấp cao hiệu quả, thì đó chẳng phải là điều tốt hay sao?

[1] Đặng Phong (1939-2010): Chuyên gia lịch sử kinh tế, tác giả cuốn "Tư duy kinh tế Việt Nam - Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989"

[2]  Tư liệu trong cuốn “Nghiên cứu so sánh Đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc” - công trình hợp tác giữa Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (Việt Nam) và Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây (Trung Quốc), Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hữu Tầng và Giáo sư Lưu Hàm Nhạc chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2002.

[3]  Tác giả của thí nghiệm về “hiệu ứng con ngỗng con” là nhà tâm lý học động vật hàng đầu Konrad Lorenz, Nobel về Y học năm 1973.

* * *

English translation

China’s Reform vs. Vietnam’s Doi Moi

In 2009, on the 60th anniversary of the founding of the People’s Republic of China, the country’s state media launched a campaign of glorifying the nation’s development, of which the success of Chinese economic model was an integral part.

To date, a final definition of the Chinese economic model has not yet been reached. But Chinese scholars and their Western counterparts have discussed a great deal, with the most frequently used terms on talking about the topic including reform, open policy, trial, inner shift, gradual progress, heavy state control, economic growth, and political stability.

It’s not a phenomenon when someone suggests making a comparision to address the similarities and disparities between the model of China and that of Vietnam. At least scholars from both nations have conducted a substantial number of seminars and research projects to compare between China’s reform and Vietnam’s Doi Moi.

China embarked on economic reform in 1978, while Vietnam began the course in 1986. Compared to the rest of the transitional economies in the USSR, Eastern Europe, Asia, Africa and Latin America, Vietnam and China shared more common characteristics. For example, both insist on the course of “building socialism” under the ruling Communist party. This is totally different from Eastearn Europe and the Soviet Union, where communist party took the lead, but left when political crises broke out halfway, hindering them from being the steerer of the transition process.

In addition to that, Vietnam’s Doi Moi and China’s reform are also alike in some major points: diversifying ownerships with a move to multi-sector economy, opening to foreign investments, boosting export-oriented production, etc.

This alikeness and the fact that Vietnam lagged eight years behind China in launching the reform have sparked the opinions that Vietnam has been making a copy of the Chinese archetype. When looking back on the success of the Chinese model, the People’s Daily newspaper on September 18th 2009 wrote that “Vietnam is the country whose replication of Chinese model is the most complete and successful.”

So, what actually are the similarities between Chinese model and the Vietnam-typed development?

Same antidote

To tell the truth, in the beginning years of the transition process, Vietnam and China did not copy anything from each other. Rather, they both resorted to the same cure for the same disease. That disease, whose symptoms included bureaucracy and subsidization, collective ownership, priority given to heavy industrial areas, etc., derived from the imitation of the Soviet model.

Dang Phong [1], a Hanoi-based economic historian, gave a derisive comparison, “In brief, both of them (China and Vietnam) ate unripe guavas and went costive. I mean, both were confronted with hard lives, economic downturn, deadlock, crises. Both suffered from constipation, thus had to find cure.”

Then during the cure, they both demonstrated similar reactions; one of which was the collapse of the credit bubble: in the embryonic period of Doi Moi, Vietnam saw the fall of “hụi”, or “tontine” funds. China experienced the same situation between 1992 and 1993 when series of credit funds went bankrupt.

The two countries would later on see the stock market bubble, the distortion of property market, the expansion and malfunction of state-owned entrepreneurs, etc. When it came to social aspect of the reform, both countries had to face torturous problems including epidemic corruption, widening social gap, impoverishment in parts of rural and mountainous areas. [2]

Therefore, it is pertinent to conclude that the two “patients” were infected with the same disease, treated with the same cure and experienced the same subsequent reactions. However, the dosage and the length of cure were different as the two patients differed in the disease’s seriousness and incubation time.

Different reactions

As per how serious the disease was, indeed China suffered from a disease more malign than Vietnam. This came as a result of the severe destruction of production during the period of the Great Leap and the People’s Community, and the great Cultural Revolution. Apart from that, China was also a highly controlled country where the government held their visible hand tightly, and free market was obliterated. Meanwhile, Vietnamese farmers could retain 5 percent of the land to do their own farming, and black market still functioned tenaciously.

China, lacking the long-standing foreign “feeding” that Vietnam enjoyed, was also compelled to actuate the reform much earlier than Vietnam did. 

The disease was more serious, the incubation time was longer, and China therefore had to take the “cure of reform” before Vietnam did, with much difference from Vietnam. In addition, between 1978 and 1986 there was a long time of tension between the two countries, which made the replication of model seem untenable.

The biggest difference was encapsulated by Dang Phong within one sentence, “Vietnam did its fence-breaking movement from bottom upwards, while China broke the fence from top down.” China took a path from theory to practice, from the central government’s policies to local activities. They only put into practice what had previously proved to be breakthroughs in theory. Meanwhile, Vietnam started its Doi Moi with cases of “fence-breaking” at local levels, which were approved by central authority and would later become policies in realities. For example, the household contract policy originated from peasants’ spontaneous and illegal activities that either received consensus and protection from local authorities or were ignored by them. There were, to name some, spectacular cases of fence-breaking like “underground household contract” in Hai Phong, the abolishment of the stamp system in Long An, the application of high prices in An Giang, the mechanism of purchasing food at market prices to save Ho Chi Minh City from famine, etc.

“In fact, the Vietnamese people had the habit of fence-breaking since wartime. Such are their distinguished national characteristics: they are flexible, skillful at managing their own way of living, and find it extremely hard to go under discipline,” said Dang Phong. “In China, the government reached the decision of breaking the old fences and building new ones following in-depth research. In Vietnam, it’s the people, not the government, who took initiative in fence-breaking without reliance on any theory.”

Doi Moi, therefore, has a highly Vietnamese style.

Did Vietnam make any replication?

Although Vietnam’s Doi Moi is not a replica of Chinese’s reform model, in the later years of the transition period, there were socio-economic policies adopted in Vietnam long after China, bearing similar traits to those of China. For example, the policy of allowing direct export for private entrepreneurs, the establishment of stock market, or the decision of equitization of state-owned enterprises, etc. were all conducted in Vietnam years after they were adopted in China. Vietnam and China are also economies where the state takes the “guiding” role. Both adopt state ownership of land, and maintain tight state control of exchange rates.

It would be irrelevant to say with much confidence of whether there has been a deliberate imitation, but what can be widely accepted is that the two countries have cured the same disease with the same antidote as mentioned above. After all, it is an usual thing for a backward economy to learn from or to be influenced by the model adopted by the more developed economies.

“In the area of strategy studies, there is a concept referred to as “the geese effect”. When the young geese were isolated from their mother, they may mistake the scientist for their mother, and would learn the identity of the scientist as if he were their real mother,” said Nguyen Duc Thanh, Ph.D. in economics at the Vietnam Economic and Policy Research. [3]

“The same phenomenon has been seen in the area of business and development strategies. Small, low-developed economies that lag behind get very easily influenced by, even deliberately imitate from economies of bigger scale, closer to them and preceding them, because they believe such is optimal. Present-day Vietnam is influenced strongly by France. For example, the civil code of Vietnam borrows from France to a good extent. In the sector of architecture, the Vietnamese tend to think that French-styled architecture is splendid, luxurious, and in sum, should be an optimal choice,” Thanh explained.

“As China is situated close to Vietnam and share many common characteristics with Vietnam in terms of political regime, it is easy for Vietnam to learn from China, and it is understandable that Vietnam replicates the Chinese model,” said Thanh.

An American-Chinese author, Li Tan, once made a generalization of the development models of all latecomers, including China and Vietnam, concluding that it was a state-led development. He wrote in his book, The Paradox of Catching up, that the state-led development model appeals to backward economies because it allows them to grow faster out of economic stagnancy.

The “Catching up Strategy”

“Replication is never a bad thing except when it is a servile, shallow-hearted imitation,” said Nguyen Duc Thanh.

From his point of view, Dang Phong said, “I think China has many traits, many policies which it would be laudable if Vietnam can learn from. In strategy for growth, for example, both China and Vietnam are export-oriented, but China has gone further than Vietnam in that they import the world’s materials to produce, then sell goods back to the world. Vietnam, on the contrary, sells their natural resources just to buy consumer goods to indulge themselves.”

Many people highly appreciate Chinese government’s resolution in fighting corruption, the strictness of their laws and regulations, and their human resource management policy. “Admittedly, China’s system of training and recruiting cadres is growing better and better. The quality of their management personnels is truly high,” said Dang Phong.

Another economist also mentioned some Chinese policies that he thought Vietnam should copy. He gave the examples of letting state-owned enterprises to hire foreign experts with attractive payment policy, granting autonomy to universities, encouraging investments by local companies abroad.

So far, it can be said that China has really adopted an economic model that clearly shows the government’s high resolution which focuses on economic growth, political stability, and sticks to the line of socialism.

Given the similarities in political system and social conditions, isn’t it good if Vietnam could adopt something “exported” from China, such as the strictness of laws and regulations, or the effectiveness in human resource policies?


[1] Dang Phong (1939-2010): a Vietnamese researcher on economic history, author of "Vietnamese Economic Thinking - The Splendid Road from 1975 to 1989."

[2]“Comparison between economic innovation in Vietnam and reforms in China”, National Politics Publishing House, 2002.

[3] Konrad Lorenz, a leading Austrian zoologist who shared the 1973 Nobel Prize in Physiology with Nikolaas Tinbergen and Karl von Frisch, is the author of the “young geese” experiment.


Sunday, 5 December 2010

Tưởng nhớ Đặng Phong

Đến hôm nay, sau mấy ngày loay hoay bài vở, tôi mới có lúc ngồi trước màn hình máy tính, nhìn ảnh Giáo sư Đặng Phong (ông không phải Giáo sư, nhưng tôi cứ muốn gọi ông vậy), và lau nước mắt. Trông ông vẫn như thế, vẫn là hình ảnh một ông già thản nhiên, phớt đời, vừa hút xì gà vừa trả lời phỏng vấn. Ông nói có những điểm cực đoan, có những chỗ tôi không nhất trí, nhưng điều tôi thấy ngay lập tức, ngay từ lần đầu tiên gặp ông, đó là Đặng Phong là một người rất thông minh, thể hiện trước hết bằng tư duy cực kỳ mạch lạc, rõ ràng. Chỉ cần phóng viên đưa ra một câu hỏi (tất nhiên là không có đáp án sẵn hay dựa trên công thức có sẵn như thi ứng xử của hoa hậu), ông sẽ ngay lập tức trả lời thành một hệ thống: ý 1, ý 2, ý 3, ý 4… Ý 1 gồm các phần, a là…, b là… Ví dụ minh họa… Người ta bảo các đạo diễn tài năng có thể hình dung trong đầu từng cảnh quay của phim từ trước khi bấm máy. Với Đặng Phong, dường như ông đã sắp xếp, hệ thống hóa trong đầu tất cả kiến thức thuộc chủ đề liên quan từ rất lâu trước khi gặp ai hỏi.

Thông thường ai cũng muốn nói hay về một người vừa nằm xuống, nhưng gạt cái thói thường này sang một bên thì quả thật là tôi rất quý ông (dù vẫn có thể phản đối một số ý kiến chuyên môn nào đó của ông). Tôi nhớ một buổi chiều cuối thu, trời âm u, xầm xì, tôi tới nhà ông, vài ngày sau khi vừa ra khỏi chỗ tạm giam – nói thẳng ra là nhà tù, chẳng phải tạm giam tạm giếc gì cả. Ông mang kẹo bánh ra cho tôi ăn. Không nói gì nhiều. Có vẻ như ông hoàn toàn tin rằng tôi vô tội, tin tới mức không cần phải nói câu gì tỏ sự an ủi tôi hay là trách móc “chúng nó” cả. Đừng nghĩ rằng ông sợ. Ông có thể nói những điều kinh thiên động địa và in hẳn ra sách, trong khi chưa ai từng dám làm thế kia mà. Gió heo may lành lạnh. Căn nhà tối dần. Nhà thấp, trông ra vườn, một khoảnh đất ngập cây cối… nên ngồi một lát thì tôi bị muỗi cắn chí chết. Nhưng tôi vẫn cứ muốn ngồi với ông, ngồi nữa, thật lâu. Tôi muốn nói với ông nhiều, và cũng muốn nghe ông nói thật nhiều. Cho đến lúc ông mời ở lại ăn tối một cách hết sức nhiệt tình, thì tôi ngượng vì tự thấy mình đã ở đây lâu quá, chén nhiều bánh quá, nên nhất định xin phép về.

Bây giờ, tôi mới thấy hối tiếc là đã không ở lại hôm ấy.

Bây giờ, cháu mới thấy nhớ bác. Cháu nhớ lời đề tặng của bác trong cuốn sách tặng cho cháu: “Tặng cháu Đoan Trang một cuốn sách không đoan trang”. Và bác thường xuyên chúc cháu “đừng có viết lách đoan trang”, dặn cháu “không bao giờ được sợ”. Cháu nhớ những câu đùa của bác nữa, mà thật ra thì không phải đùa, đó là những nhận xét – gọi là cay độc cũng được - làm bẹp dí cả một hệ thống, hay nói cách khác là đánh tan nát chút uy tín (nếu còn) của cả một tầng lớp: “Lạ. Không hiểu chúng nó làm ăn thế nào mà cứ người nào dốt nhất cái gì thì chúng nó cho vào lãnh đạo trong lĩnh vực ấy. Dốt nhất về kinh tế thì cho quản lý kinh tế. Dốt nhất về ngoại giao thì cho làm bộ trưởng ngoại giao. Ầyyyy… Lạ thế chứ lị”. Bác rít một hơi xì gà. Kèm theo là một cái nhún vai, vẻ mặt hết sức ngán ngẩm, nhưng hài hước.

Cháu không bao giờ quên được bác. Trong những ngày mùa đông buồn thảm của năm 2009, vẫn là bác đã là một trong ba người làm cháu giữ được ý nghĩ: phải sống. Cháu không thể gục ngã vì sự thối nát của “chúng nó”. Cháu không thể. Ngày 9/12, cháu đi dự hội thảo của bác, đó là hội thảo cuối cùng có mặt bác mà cháu còn được tham dự. Rất may là cháu đã kịp mua một bó hoa để tặng bác, và chỉ thế thôi, cháu không có gì khác để thể hiện tình cảm nữa.

Những ngày tháng sau đó, bao nhiêu là sóng gió.

Khi cháu đến thăm bác lần nữa, bác đã yếu lắm. Nhưng bác vẫn lạc quan, vẫn vui vẻ… chính sự lạc quan vui vẻ ấy đã làm cháu tưởng bác sẽ qua khỏi. Cho tới ngày nhận tin nhắn “bác Phong mất đêm qua”. Đến lúc ấy, cháu mới chợt nhớ ra là cháu chưa bao giờ chụp ảnh bác, và không có một bức ảnh nào chụp chung với bác.

Từ hôm ấy đến giờ, cháu đã đi thăm – liên tiếp – mấy người bạn ốm. Họ còn rất trẻ, có thể bệnh cũng sẽ qua? Nhưng cháu đã thấy là không bao giờ nên hoãn việc đi thăm một người ốm lại nữa, vì biết đâu đó có thể là lần cuối cùng ta được gặp họ.

Cháu nhớ bác. Khi cháu nói bác để lại “một khoảng trống không thể lấp đầy” trong lĩnh vực sử kinh tế, thật ra, lúc ấy cháu nghĩ về cháu nhiều hơn. Sẽ có một khoảng trống không thể lấp đầy mà cháu phải đối mặt. Rất nhiều câu hỏi về quá khứ, cháu sẽ không biết tìm đến ai. Một nguồn tư liệu khổng lồ đã mất đi.

Nhưng cháu nhớ bác nhất là vì cháu sẽ không bao giờ có lại cơ hội ngồi trong căn nhà bên vườn ấy, cũng như cháu sẽ không bao giờ quên hình ảnh bác – một ông già lạc quan với cây tẩu hút xì gà và nụ cười hóm hỉnh.

Đêm 24-8-2010

Monday, 23 August 2010

Vĩnh biệt người viết “nhật ký thời bao cấp”

Sáng 20-8, giới kinh tế học ở Việt Nam đón nhận tin buồn: Chuyên gia lịch sử kinh tế Đặng Phong qua đời vì bệnh hiểm nghèo. Cùng nỗi tiếc thương là cảm giác băn khoăn: Có phải con người ấy đã mang đi theo ông bao nhiêu thông tin quý báu, bao nhiêu bí mật về nền kinh tế Việt Nam trong suốt một chiều dài lịch sử? Ai sẽ thay thế ông để làm “con thuyền chuyên chở kiến thức và kinh nghiệm từ quá khứ đến các thế hệ hiện tại”?

TS kinh tế Nguyễn Đức Thành ví ông Đặng Phong như thế - như “một con thuyền lớn và đơn độc chuyển tải kiến thức đến cho những thế hệ mà hiểu biết của họ về quá khứ đang bị xóa mờ đi rất nhanh”.

Sinh năm 1939, có hai bằng đại học kinh tế và lịch sử, trải nghiệm đời sống kinh tế ở Việt Nam suốt từ khi giành độc lập, qua thời bao cấp tới ngày Đổi Mới, Đặng Phong có nhiều điều kiện để làm một sử gia kinh tế chuyên nghiệp. Nhưng đó mới chỉ là điều kiện cần; ngoài ra, ở ông còn có những yếu tố, những phẩm chất rất khó tìm thấy ở người khác, mà điều đầu tiên là tài năng thiên bẩm, thể hiện dưới dạng một niềm say mê kỳ lạ: Ông đã quan tâm tới việc viết lịch sử kinh tế của đất nước từ những năm còn rất trẻ. Ít người biết rằng Đặng Phong đã viết tác phẩm đầu tay năm ông mới hơn… 20 tuổi.


Con người của đam mê

Cuốn sách đầu tay của Đặng Phong viết về kinh tế Việt Nam thời nguyên thủy, đồ sộ, quy mô và chứa đựng nhiều ý rất mới. Khi tìm đọc tác phẩm này, TS Nguyễn Đức Thành cho biết ông bị ấn tượng bởi “một cuốn sách viết hết sức bài bản, kinh điển”. Còn nhà giáo Phạm Toàn – độc giả của Đặng Phong từ hồi ấy - thì khẳng định: “Vào thời điểm ấy, đó là cuốn sách đầu tiên không giáo điều mà tôi được đọc”. Chẳng hạn, sách đưa ra quan điểm cho rằng không nên nhấn mạnh Việt Nam là một nước “rừng vàng biển bạc”, bởi lẽ rừng của chúng ta không nhiều như chúng ta tưởng, nhất là nếu so với nước Mỹ nơi một đàn bò tót đi qua có thể để lại vết bụi kéo dài tới 3 km! Điều gây kinh ngạc là tác giả mới ngoài 20 tuổi, và cuốn sách đã đưa ra những quan điểm như thế trong bối cảnh Việt Nam những năm 60 của thế kỷ trước.

Đặng Phong chính thức bước vào sự nghiệp của một nhà sử kinh tế kể từ đó. Thập niên 60-70, ông công tác tại Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, và là cộng sự đắc lực của GS Trần Phương. Khi ông Trần Phương trở thành Phó Thủ tướng (nhiệm kỳ 1982-1985), Đặng Phong được điều chuyển về làm chuyên viên ở Viện Nghiên cứu Khoa học Giá cả, trực thuộc Ủy ban Vật giá Nhà nước. Tại đây, tiếp xúc với kho tư liệu của Ủy ban, ông càng hăng hái làm việc: sưu tầm, tìm hiểu, đọc, đi và viết. GS-TS Nguyễn Thị Hiền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Giá cả, “sếp” cũ của Đặng Phong, hồi tưởng: “Anh viết chắc tay, viết khỏe, viết nhiều, cái nhìn sắc sảo. Làm việc rất hăng say, phải nói là cực kỳ nhiệt tình, đam mê công việc, xứng đáng là tấm gương cho lớp trẻ noi theo. Suốt cả đời mình, Đặng Phong thích đi, thích mầy mò, chịu khó sưu tầm tư liệu, chính vì thế sách của anh ấy luôn dày thông tin. Tôi thấy đấy là người viết sử kinh tế xuất sắc nhất Việt Nam”.

Không thật sự yêu một công việc, người ta không thể hết lòng vì nó, không thể bỏ công tìm tòi, phát triển nó. Ở Đặng Phong, niềm đam mê đã khiến ông có sự sáng tạo, phong cách độc đáo hiếm thấy ở người khác. Đi dạy, viết sách, ông luôn đưa vào những ý tưởng mới mẻ và sắc sảo. Biên soạn cuốn sách nổi tiếng, “Tư duy kinh tế Việt Nam: Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989”, để đảm bảo tính khách quan và chính xác của thông tin, ông đã gặp và phỏng vấn hàng chục “nhân vật của một thời”, trong đó đặc biệt là những người đã từng làm việc gần gũi các cán bộ lãnh đạo - như các ông Trần Phương (nguyên trợ lý của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn), Trần Việt Phương (nguyên thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng) .v.v. Kết quả của sự dày công đó là một cuốn sách đầy ắp tư liệu, trong đó rất nhiều chi tiết dường như là chuyện “thâm cung bí sử”, về thời kỳ ngột ngạt của đất nước “đêm trước Đổi Mới”. Nhiều thông tin có lẽ phi Đặng Phong không ai có được (những người có được thì lại không viết sách), như câu chuyện về vụ Z30 ở Hà Nội, hay cuộc trao đổi có một không hai giữa GS triết học Trần Đức Thảo và Tổng Bí thư Lê Duẩn về thuyết “làm chủ tập thể”.


Ai người thay thế Đặng Phong?

Thực tế là nếu không vì đam mê công việc, Đặng Phong chẳng có lý do gì để vùi mình vào công việc viết sử kinh tế vất vả và… ít tiền. GS-TS Nguyễn Thị Hiền bày tỏ: “Đóng góp lớn nhất của Đặng Phong là mầy mò tìm hiểu, tập hợp tư liệu và viết sách, một việc mà ngoài ông ấy, ít người chịu bỏ công ra lắm. Ở các trường đại học thì đều có khoa sử kinh tế cả, nhưng tôi nói thực là người ta chẳng có thì giờ mà viết đâu, chạy sô dạy học – chính khóa rồi tại chức – ra tiền hơn nhiều. Đặng Phong viết một cuốn thì giỏi lắm được vài chục triệu đồng chứ mấy, viết để thỏa mãn đam mê của ông ấy chứ ai kiếm tiền từ đấy. Tôi e là cứ cái kiểu đại học như bây giờ thì sẽ không có cơ sở nghiên cứu nào xuất phát từ hệ thống đại học đâu, nên ông Đặng Phong một mình một chiếu sử kinh tế, tung hoành ngang dọc bao lâu nay là đương nhiên”.

TS Nguyễn Đức Thành thì nhận định: “Từ quan điểm của tôi, Đặng Phong hiện giờ là người không thể thay thế. Ông hội tụ được đầy đủ các yếu tố: quan hệ sâu rộng với các nhân chứng lịch sử trong nước, quan hệ rất rộng rãi với học giả quốc tế, là nhân chứng trực tiếp trong suốt những biến động kinh tế của đất nước, và những đam mê, hoài bão to lớn. Nhân chứng lịch sử - những người sống cùng thời ông - thì nhiều lắm nhưng họ không có chủ đích thu thập, tập hợp tư liệu. Trong cộng đồng các nhà nghiên cứu, cũng có những sử gia tài năng người Việt ở nước ngoài, thì họ lại không có mặt trong những thăng trầm của kinh tế Việt Nam; họ là hiện thân của một đời sống khác không ở Việt Nam”.

Với sinh viên và thế hệ các nhà kinh tế trẻ, Đặng Phong luôn được coi như một “túi khôn”, một kho tư liệu sử. Ông còn là người động viên họ bước chân vào lĩnh vực khô khan, khó khăn và… ít tiền này. Lâu nay, cứ đến nhà ông là người ta lại gặp những gương mặt sinh viên trẻ đang hăm hở học tập, nghiên cứu, viết sách cùng với “thầy Phong”. Người muốn viết về lịch sử các quán cà phê ở Hà Nội, người muốn tìm hiểu mô hình kinh tế Trung Quốc trong tương quan so sánh với Việt Nam… TS Nguyễn Đức Thành cũng kể: “Khi gặp đám nghiên cứu trẻ, ông hay nói chuyện về lịch sử kinh tế và kể lại các sự kiện kinh tế để chúng tôi hiểu biết thêm về Việt Nam. Nói chung, Đặng Phong mang lại nguồn cảm hứng lớn, và mỗi lần trao đổi với ông thì chúng tôi đều học hỏi được rất nhiều. Ông là cầu nối giữa thế hệ các kinh tế gia trẻ, không có điều kiện trải nghiệm nhiều, với quá khứ thực tiễn của dân tộc”.

Ngoài đời, Đặng Phong sống vui vẻ, lạc quan, hài hước. Ông thường “phân trần” với mọi người một cách dí dỏm: “Không hiểu sao báo chí cứ nâng tôi lên “giáo sư”, tôi đã bao giờ được Nhà nước phong hàm đâu cơ chứ”. Không tiến sĩ, không giáo sư, nhưng Đặng Phong đã là chuyên gia mời ở nhiều viện nghiên cứu và trường đại học trên thế giới: ĐH Ai-xen-Provence (Pháp), ĐH California (Monterey Bay, Mỹ), ĐH Cambridge (Anh), ĐH Macquarie (Australia)… Phát hiện bị ung thư từ đầu năm 2009, ông vẫn hết sức bình thản, lạc quan chữa trị. Ông còn đùa bảo: “Nếu tôi có chết sớm thì cũng hợp lý thôi, âu cũng là cái giá phải trả cho nửa đời thích uống whisky, hút thuốc lá. Nhưng nếu cả đời không được uống whisky và hút xì gà thì phí lắm”.

Nói chuyện hấp dẫn, ham hiểu biết, thích đi đây đó, Đặng Phong cũng là người quảng giao, dễ gần, rất nhiều bạn bè trong và ngoài nước. Các bạn đánh giá ông “kiêu thì rất kiêu – vì thực sự có tài – nhưng với bạn thì cởi mở, hết lòng”. Họa sĩ Phạm Tuấn Dũng (nguyên Tổng Biên tập báo Giao thông) kể: “Có lần tôi bảo Đặng Phong là tôi đang muốn mời Ban Giám đốc Nhà in báo Nhân dân một bữa nhậu. Phong nói ngay là cứ hẹn đi, rồi vác súng ra ngoại thành đi săn chim. Mãi 6h tối ông ấy mới về, đổ ra sàn nhà… một đống chim, mọi người lại phải lăn vào vặt lông làm thịt, nhưng vui lắm, ăn ngon. Đặng Phong nấu nướng rất giỏi, dân nhậu mà, sành ăn. Có món gì hay lại gọi bạn đến nhà nhậu. Lần đầu tiên tôi được ăn món hoa ban muối giòn là do Đặng Phong làm đấy”.

Đặng Phong ra đi khi ước vọng của ông về việc viết một bộ thông sử kinh tế Việt Nam còn dang dở. Dù hiện tại, chưa gương mặt nào trong giới sử kinh tế có thể thay thế ông, nhưng người ta có thể hy vọng rằng rồi sẽ có người kế cận. Ông để lại rất nhiều tư liệu. Những bạn bè lâu năm của ông đã nhận định: “Với tính cách ấy, với những tư tưởng mới từ thời 20 tuổi ấy, Đặng Phong không bao giờ là người giấu kín kiến thức, không chia sẻ”. Nhưng quan trọng hơn thế là, ông đã gợi lên trong lòng không ít sinh viên cũng như độc giả của mình niềm say mê nghiên cứu, ít nhất cũng là sự quan tâm tới lịch sử nền kinh tế nước nhà.


++++++++++


Ghi chú: Không con người nào là hoàn mỹ. Không tác phẩm nào là hoàn thiện. Không tư tưởng nào là chân lý tuyệt đối. Tuy nhiên, với lòng tôn trọng người đã khuất, xin bạn đọc cho phép tôi, trong khuôn khổ bài viết này, không bàn tới những gì có thể bị coi là nhược điểm hoặc chưa được đánh giá cao trong sự nghiệp viết sử của sử gia kinh tế Đặng Phong.

Monday, 8 February 2010

Bài báo “học thuật” nhất năm 2009

Trang the Ridiculous xin tiếp tục mạch "tổng kết bài vở trong năm", trên tinh thần "tổng kết để mà tổng kết". Rất cảm ơn các bác, các anh chị em, các bạn đã quan tâm và ủng hộ, tuy nhiên, cũng rất mong các bác, các anh chị em, các bạn nếu comment xin trung tính một chút, kẻo... không tiện cho em.

------------------------------------------------------------------------------------

Nói chung Trang the Ridiculous khó tính đến khắt khe nên viết bài gì xong cũng thấy cứ thế nào ấy, cứ làm sao ấy, chả ra cái gì v.v. và v.v. Bài dưới đây cũng vậy, ngay từ lúc viết đã thấy nó “hàn lâm, học thuật” sao sao đó. Tuy nhiên dù sao đây cũng là bài mà sau một thời gian đọc lại, tôi thấy tương đối hài lòng vì nghĩ là đã khách quan ở mức cần thiết. Nó còn là bài đầu tiên tôi viết sau khi tham gia "the state-owned project of arrest" ("dự án câu lưu", I put it this way, hẹ hẹ), và là bài cuối cùng tôi viết về Trung Quốc trong năm 2009.

*****

CẢI CÁCH Ở TRUNG QUỐC VÀ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

Nhân 60 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa, báo chí Trung Quốc có những bài viết về thành tựu phát triển đất nước, trong đó nhắc tới sự thành công của mô hình kinh tế kiểu Trung Quốc.

Chưa có một định nghĩa cuối cùng, nhưng các học giả Trung Hoa cũng như phương Tây đã bàn nhiều về mô hình phát triển Trung Quốc. Những từ thường được dùng để mô tả nó là: cải cách, mở cửa, thử nghiệm, chuyển đổi từ bên trong, tiến bộ từng bước, Nhà nước định hướng mạnh, tăng trưởng kinh tế, và ổn định chính trị.

Sự so sánh để tìm những tương đồng và khác biệt giữa mô hình Trung Quốc và Việt Nam không phải vấn đề bây giờ mới được nhắc tới. Ít nhất thì các nhà khoa học của cả hai nước đã từng tiến hành nhiều hội thảo và thực hiện các công trình nghiên cứu so sánh công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam.

Trung Quốc bắt đầu cải cách từ năm 1978, còn Việt Nam từ năm 1986. So với phần còn lại của thế giới cũng tiến hành chuyển đổi (Liên Xô, các nước Đông Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin), hai nước chia sẻ nhiều điểm chung hơn, chẳng hạn cả hai đều kiên trì con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Điều này khác xa Đông Âu và Liên Xô - là nơi mà, theo chuyên gia lịch sử kinh tế Đặng Phong, “đảng Cộng sản chỉ dẫn dắt quá trình chuyển đổi chưa được một nửa con đường, sau đó thì những khủng hoảng chính trị đã làm cho đảng Cộng sản ở các nước đó không còn là người điều hành cuộc chuyển đổi nữa”.

Bên cạnh đó, nội dung đổi mới ở Việt Nam và cải cách ở Trung Quốc còn giống nhau ở một số điểm lớn, như: đa dạng hóa cơ cấu sở hữu (chuyển sang kinh tế nhiều thành phần); mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh sản xuất hướng về xuất khẩu, v.v.

Chính sự tương đồng đó, cùng với việc Việt Nam tiến hành đổi mới sau Trung Quốc 8 năm, đã làm nảy sinh nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam sao chép mô hình phát triển của Trung Quốc. Gần đây, khi nhìn lại sự thành công của mô hình này, tờ Nhân Dân Nhật Báo số ra ngày 18 tháng 9 có bài viết nhận định Việt Nam là trường hợp “sao chép toàn diện và thành công nhất mô hình Trung Quốc”.

Sự thực thì có tương đồng gì giữa mô hình Trung Quốc và phát triển kiểu Việt Nam?

* * *

Cùng một thứ thuốc trị bệnh…

Nói cho đúng thì trong những năm đầu của công cuộc chuyển đổi, Việt Nam và Trung Quốc không ai sao chép ai, mà cả hai đều thực hiện những “phương thuốc” nhỡn tiền phải dùng để chữa trị “căn bệnh” chung. Căn bệnh đó, với các triệu chứng như tập trung bao cấp, sở hữu toàn dân và tập thể, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…, xuất phát từ việc sao chép mô hình của Liên Xô.

Ông Đặng Phong có một so sánh hài hước: “Tóm lại là cả hai đều ăn ổi xanh, ăn ổi xanh thì đều táo bón, tức là đời sống khó khăn, kinh tế đi xuống, bế tắc, khủng hoảng. Cả hai táo bón thì đều cùng phải uống thuốc”.

Thế rồi, trong quá trình chữa bệnh, cả hai cùng có các phản ứng giống nhau. Ví dụ như nạn vỡ bong bóng tín dụng. Ở Việt Nam giai đoạn đầu đổi mới có tình trạng bể hụi, vỡ quỹ tín dụng. Ở Trung Quốc những năm 1992-1993 cũng xảy ra việc hàng loạt ngân hàng phá sản.

Sau này, hai nước lại tiếp tục chứng kiến bong bóng chứng khoán, méo mó trên thị trường bất động sản, sự phình to và hoạt động không hiệu quả của khối quốc doanh… Về mặt xã hội, cả hai đều phải đương đầu với các vấn đề gay gắt như tham nhũng tràn lan, bất bình đẳng xã hội mở rộng, bần cùng hóa ở một bộ phận dân cư nông thôn miền núi.

Như vậy, có thể thấy là hai “bệnh nhân” mắc bệnh giống nhau, dùng thuốc giống nhau và cùng trải qua các phản ứng tương tự. Tuy nhiên, do mức độ bệnh và thời gian phát bệnh khác nhau nên liều dùng và thời điểm dùng thuốc của hai “bệnh nhân” lại khác nhau.

* * *

Mỗi người dùng một khác…

Nói về mức độ của căn bệnh, thì Trung Quốc “bị” nặng hơn Việt Nam, do nền sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng trong thời kỳ Đại nhảy vọt, Công xã nhân dân và Đại cách mạng Văn hóa. Cạnh đó, ở Trung Quốc kỷ cương rất chặt, Nhà nước quản lý tập trung cao độ, thị trường tự do bị xóa sổ. Trong khi ở Việt Nam, nông dân vẫn còn được 5% đất để kinh doanh sản phẩm phụ, và chợ đen vẫn tồn tại với sức sống rất mãnh liệt, dai dẳng.

Trung Quốc cũng bị đẩy vào tình thế phải cải cách sớm hơn Việt Nam, do không có được “bầu sữa viện trợ” kéo dài như Việt Nam.

“Bệnh” nặng hơn và thời gian “phát bệnh” diễn ra trước nên Trung Quốc dùng “thuốc cải cách” trước và có những khác biệt so với Việt Nam. Ngoài ra, thời kỳ 1978-1986 cũng là khoảng thời gian dài quan hệ hai nước căng thẳng nên sự sao chép, học tập về mô hình cải cách là không thể có.

Sự khác biệt lớn nhất được nhà nghiên cứu Đặng Phong đúc kết trong một câu: “Ta phá rào từ dưới lên, còn Trung Quốc phá rào từ trên xuống”. Trung Quốc đã đi theo con đường từ lý luận tới thực tiễn, từ chỉ đạo của Trung ương tới hành động của địa phương. Sau khi đã có những đột phá về lý luận nhằm giải quyết các bế tắc, Trung Quốc mới cho thực hành. Trong khi đó, Đổi Mới của Việt Nam lại bắt đầu từ những vụ “phá rào” ở cơ sở, sau đó được Trung ương chấp nhận và cuối cùng trở thành chính sách. Ví dụ, chính sách khoán bắt đầu từ những hiện tượng tự phát và làm chui của nông dân, mà lãnh đạo địa phương hoặc đồng ý cho làm và “bao che” trước Trung ương, hoặc lờ đi. Có thể kể tới các vụ phá rào “ngoạn mục” như khoán chui ở Hải Phòng, xóa tem phiếu ở Long An, cơ chế mua cao bán cao ở An Giang, mua lương thực với giá thị trường để bán “cứu đói” cho Thành phố Hồ Chí Minh…

Ông Đặng Phong nhận xét: “Thật ra người Việt Nam đã “phá rào” suốt từ… thời chống Mỹ. Đặc tính của dân mình là vậy, linh hoạt, có khả năng xoay xở cao và rất khó đi vào kỷ cương. Ở Trung Quốc, Nhà nước nghiên cứu bài bản rồi mới quyết định dỡ bỏ hàng rào cũ, lập hàng rào mới. Còn ở Việt Nam ta là dân chúng, địa phương chủ động dỡ bỏ quách hàng rào, chẳng theo lý thuyết nào cả”.

Đổi mới, vì thế, mang phong cách rất Việt Nam.

* * *

Có hay không sự sao chép?

Đổi mới ở Việt Nam không phải là sự sao chép mô hình cải cách của Trung Quốc. Tuy nhiên, vào những năm về sau trong công cuộc chuyển đổi, có những quyết sách kinh tế – xã hội của Việt Nam được tiến hành sau và mang nhiều nét tương tự như Trung Quốc. Chẳng hạn như chính sách trao quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho khối doanh nghiệp tư nhân, thành lập thị trường chứng khoán, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước… đều được tiến hành ở Việt Nam sau Trung Quốc vài năm. Việt Nam và Trung Quốc cũng là hai nền kinh tế duy trì vai trò chủ đạo, định hướng phát triển của Nhà nước. Cả hai quốc gia đều thực hiện sở hữu Nhà nước về đất đai, chế độ quản lý chặt chẽ của Nhà nước về tỷ giá hối đoái.

Không thể khẳng định có sự sao chép với chủ ý hay không, nhưng điều chắc chắn là, như trên đã nói, có những phương thuốc chung để hai nước trị các căn bệnh chung. Thêm vào đó, việc một nền kinh tế đi sau tham khảo, học tập hoặc chịu ảnh hưởng từ mô hình của nền kinh tế đi trước là chuyện thường gặp trên thế giới.

Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Đức Thành, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Việt Nam (VEPR), giải thích điều này bằng một ví dụ thú vị: “Trong khoa học về chiến lược, có khái niệm gọi là “hiệu ứng con ngỗng con”. Khi con ngỗng ra đời mà bị cách ly với mẹ, nó có thể tưởng nhà bác học chăm nuôi nó chính là mẹ, và nó sẽ đi theo nhà bác học đó như thể đó là ngỗng mẹ vậy.

Hiện tượng tương tự xảy ra trong kinh doanh và xây dựng chiến lược phát triển: Các nền kinh tế nhỏ, chậm phát triển, đi sau, rất dễ bị ảnh hưởng, thậm chí sao chép một cách có chủ ý từ nền kinh tế có quy mô lớn hơn, gần gũi mình và đi trước mình, vì nghĩ rằng như thế là tốt, là ưu việt. Việt Nam hiện đại chịu ảnh hưởng nhiều từ Pháp, ví dụ như luật dân sự của Việt Nam áp dụng nhiều điều của Pháp. Trong kiến trúc, chúng ta cũng có xu hướng cho rằng kiến trúc Pháp là đẹp, là sang trọng, tóm lại là ưu việt. Trung Quốc ở gần và có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về thể chế, dễ học, nên Việt Nam có tiếp thu mô hình Trung Quốc cũng không lạ”.

Một học giả gốc Hoa ở Mỹ, Li Tan, cũng từng khái quát hóa mô hình phát triển của tất cả các nền kinh tế đi sau, bao gồm cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, thành sự phát triển dưới định hướng của nhà nước. Li Tan viết: “Mô hình phát triển dựa vào nhà nước sẽ tiếp tục có sức hấp dẫn đối với các nền kinh tế phát triển sau… vì nó cho phép các nước nghèo phát triển nhanh hơn để thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế”.

* * *

“Chiến lược đuổi kịp”

“Copy, sao chép không bao giờ là tiêu cực, trừ trường hợp copy một cách mù quáng, nông cạn” – Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành khẳng định. Còn nhà nghiên cứu Đặng Phong nhận xét: “Tôi nghĩ Trung Quốc có những đặc điểm, những chính sách mà nếu Việt Nam học tập được thì tốt quá! Ví dụ như trong chiến lược phát triển, cả hai nước cùng hướng về xuất khẩu, nhưng Trung Quốc đi xa hơn Việt Nam ở chỗ họ lấy nguyên liệu của toàn thế giới để sản xuất hàng hóa bán cho thế giới. Còn Việt Nam ta xúc nguyên liệu của mình đi bán để mua hàng hóa bên ngoài về tiêu xài”.

Nhiều người cũng đánh giá cao quyết tâm chống tham nhũng của chính quyền Trung Quốc, sự nghiêm minh của pháp luật, kỷ cương trật tự, hoặc cơ chế sử dụng nhân sự. Ông Đặng Phong nói: “Phải thừa nhận rằng Trung Quốc đào tạo, sàng lọc và tuyển dụng cán bộ ngày càng tốt hơn. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý của họ thật sự rất cao”.

Một nhà kinh tế khác cũng nói về một số chính sách của Trung Quốc mà Việt Nam nên xem xét tham khảo. Ví dụ chủ trương cho các công ty quốc doanh thuê chuyên gia nước ngoài làm quản lý, trả lương rất hậu hĩnh. Hoặc chủ trương trao quyền tự chủ cho hệ thống trường đại học, khuyến khích việc đầu tư của tư nhân ra nước ngoài…

Cho đến nay, có thể nói Trung Quốc thực sự đã đi theo một mô hình kinh tế thể hiện rất rõ quyết tâm của Nhà nước: tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với sự tương đồng về thể chế chính trị, hoàn cảnh xã hội, nếu Việt Nam có thể áp dụng điều gì từ Trung Quốc, như sự nghiêm minh của hệ thống pháp luật hay cơ chế sử dụng nhân sự cấp cao hiệu quả, thì đó chẳng phải là điều tốt hay sao?

----------------------

Chú thích: Tác giả của thí nghiệm về “hiệu ứng con ngỗng con” là nhà tâm lý học động vật Konrad Lorenz, Nobel về Y học năm 1973: http://en.wikipedia.org/wiki/Konrad_Lorenz