Wednesday 21 January 2015

Viết cho Bút Chì, về cách mạng

  • Nguyễn Anh Tuấn – Trịnh Hữu Long  – Phạm Đoan Trang

Ngay sau khi phong trào “Tôi không thích Đảng Cộng sản Việt Nam” ra đời, trong cộng đồng mạng ở Việt Nam, như thường lệ, đã xuất hiện vô số quan điểm trái ngược nhau về nó: ủng hộ, hưởng ứng, chê bai, dè bỉu, v.v. Trong số các ý kiến ngả theo hướng phê bình “Tôi không thích”, bài viết của blogger Bút Chì mang nhan đề “Viết cho em, về cách mạng” có lẽ gây chú ý và được tán đồng nhiều nhất vì nó ở một trình độ… ngụy biện tinh vi hơn hẳn các bài phản đối tương tự.

Đôi lời phi lộ: “Những gì anh sắp viết ra đây không phải là để chống lại hay ngăn cản điều em đang làm. Em hãy cứ làm điều em muốn, cứ bày tỏ điều em cho là phải, cứ quan tâm điều em thấy cần phải quan tâm”. Cũng giống như tác giả Bút Chì đã viết như thế cho một (hoặc một số) độc giả “ngây thơ” nào đó mà anh gọi là “em” và xưng “anh”, trước khi mở đầu bài phản biện này, chúng tôi muốn nói rõ rằng: Những gì chúng tôi sắp viết ra sau đây không nhằm chỉ trích Bút Chì hay cản trở quyền tự do biểu đạt của anh. Chúng tôi hoàn toàn tôn trọng quan điểm, suy nghĩ và thái độ của anh.

Điều mà chúng tôi muốn đạt được, là chỉ ra cho bạn đọc một kiểu quan điểm được củng cố bởi những lập luận yếu, tức là ngụy biện, mà nó lại vốn dẫn đến một thái độ khá phổ biến trong văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay: thái độ hoài nghi và có phần cao đạo, trên đời, khi nhìn vào những nỗ lực của một thiểu số mong muốn tạo ra sự thay đổi.

* * * 

Căn cứ “dấu vết” để lại trên đường link, bài viết của tác giả Bút Chì ban đầu có lẽ lấy tên là “Dặn em, về cách mạng”, sau đó mới được đổi thành “Viết cho em, về cách mạng” – một nhan đề ít cao ngạo hơn so với cái tựa lúc đầu. Tuy nhiên, sau những câu rào đón nhẹ nhàng rằng “em hãy cứ làm điều em muốn…”, tác giả giả định rằng “em đang hừng hực khí thế”, để rồi cho lời khuyên ngay, với tư cách “người vừa đi qua giai đoạn ấy”. Giai đoạn ấy tức là giai đoạn hừng hực khí thế để tham gia một phong trào trên mạng. 

Ở đây, chúng ta tạm bỏ qua việc tác giả phạm một lỗi ngụy biện (kiểu “tôi đã trải qua kinh nghiệm đó rồi, nên những gì tôi nói về nó phải đúng”), thì cũng có thể phát hiện ra rất nhiều lập luận yếu khác.

Mặc định rằng “chính trị, xét cho cùng, là vòng xoáy của quyền lực/ quyền lợi vô cùng tàn nhẫn, u mê và không lối thoát” là hành động gán bừa một định nghĩa (sai) cho một khái niệm, để rồi tiếp tục các lập luận của mình trên cơ sở định nghĩa chủ quan và sai đó. Chính trị, nếu được định nghĩa một cách nghiêm túc, chưa bao giờ là “vòng xoáy của quyền lực/ quyền lợi…, u mê và không lối thoát”. Cách mô tả chính trị đa nguyên như là sự hỗn loạn, bẩn thỉu, tàn nhẫn, xấu xa hay mang những tính chất tiêu cực tương tự khác đã chỉ luôn là chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như những thế lực độc tài trên thế giới, muốn biến chính trị thành con ngoáo ộp để người dân sợ hãi hoặc ghê tởm mà tránh cho xa. Với chủ trương đó, các nhà độc tài đã thành công trong việc hạn chế tự do, đặc biệt là triệt tiêu quyền tham gia chính trị của người dân: quyền bầu cử, ứng cử, vận động chính sách, thậm chí chỉ là quyền được tự do thể hiện chính kiến, quan điểm như “tôi không thích”.

Nhưng tác giả đã đưa ra một định nghĩa như thế về chính trị, theo đúng hướng mà các nhà độc tài rất thích. Sau đó, anh lại khéo léo cài vào một câu đánh giá độc giả: “Nếu em thực sự đủ hiểu biết và trưởng thành, em sẽ tự biết cách rời xa nó…”. Viết chặn trước như vậy thì còn độc giả nào dám cãi lại anh nữa, để rồi phải mang tiếng “chưa đủ hiểu biết và trưởng thành”.

Thích, thì nhích

Bút Chì cũng đưa ra một lý do mà anh “chặn trước” rằng nó là “một điều căn bản hiển nhiên”: Chúng ta không thể giải quyết vấn đề bằng chính tâm trí đã tạo ra vấn đề đó. Câu nói của Einstein, dịch sát nghĩa sang tiếng Việt, là: Chúng ta không thể giải quyết vấn đề bằng chính lối tư duy đã tạo ra nó. Nếu bỏ công diễn giải thì cũng hiểu được câu nói của Einstein có lý của nó, chẳng hạn, chúng ta không thể giải quyết một chính thể độc tài bằng lối tư duy độc tài. 

Ở đây có thể thấy rõ vấn đề mà những người tham gia chiến dịch “Tôi không thích” muốn giải quyết là sự độc tài của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tất nhiên, không thể giải quyết được sự độc tài đó bằng tư duy độc tài. Vậy thì việc giơ biểu ngữ “Tôi không thích Đảng Cộng sản Việt Nam” thể hiện tư duy độc tài ở chỗ nào? Đặc trưng của tư duy độc tài là tính áp đặt. Tính áp đặt thể hiện ở đâu trong những tấm biển “tôi không thích” này? Chẳng phải mọi thay đổi xã hội trong toàn bộ lịch sử loài người đều bắt đầu từ thứ tư duy và cảm xúc cơ bản nhất là “tôi không thích” hay sao? 

Chúng ta có thể cố gắng hiểu tác giả hơn, khi anh đi sâu vào giải thích thứ tư duy mà anh không thích: “Nếu các em đọc kỹ các bài viết của nhau, từ cả trái lẫn phải, cả trong lẫn ngoài, và nhìn sâu xuống bên dưới, em sẽ thấy chúng giống nhau vô cùng, và giống y chang các bậc cha ông chúng ta hồi họ còn trẻ. Cũng một lòng nhiệt huyết, cùng một sự hung hăng, cùng một thái độ “cách mạng”…”.

Bút Chì cho rằng những điều ấy “khó lòng tạo nên thay đổi thực sự”, và anh giải thích đó là bởi vì: Không ai trong các em đang “cách mạng” bản thân mình”, “em đòi thay đổi thế giới, trong khi không thực sự biết sẽ thay đổi nó bằng gì”.

Thật ra thì, ai trong chúng ta lúc này thực sự biết có thể thay đổi thế giới bằng gì?

Cũng khó ai tìm ra được một con đường chung cho việc “cách mạng bản thân mình”. Lần này, Bút Chì đã không gán cho khái niệm cách mạng một định nghĩa nào của riêng anh, nhưng anh khẳng định “đó là cuộc cách mạng bên trong”, chẳng hạn như: Thay vì than vãn quá nhiều rác, chúng ta bắt tay vào dọn dẹp; thay vì nguyền rủa lũ vô đạo đức, chúng ta tự mình sống tử tế.

Nhưng chúng ta có thể hỏi Bút Chì rằng: Nếu ta vừa dọn dẹp, vừa than vãn là xã hội có quá nhiều rác, cũng như vừa tự mình sống tử tế, vừa nguyền rủa lũ vô đạo đức, thì có được không?

Vượt ra khỏi thân phận thảo dân “ơn Đảng, Chính phủ” của nhiều người thuộc thế hệ đi trước, mà đứng lên giương cao biển “Tôi không thích Đảng Cộng sản Việt Nam”, đó có phải là một hành động mang tính cách mạng không?

Có gì đáng góp ý hay chỉ trích không, nếu các bạn trẻ Việt Nam vừa thẳng thắn thể hiện quan điểm “Tôi không thích Đảng Cộng sản Việt Nam”, vừa đấu tranh để khẳng định nhân quyền cơ bản của mình, tham gia chính trị theo hướng vận động chính sách, kiến tạo sự thay đổi, cổ súy cho lòng yêu nước và một xã hội được quản trị tốt hơn? Và họ làm tất cả những điều đó trong khi vẫn viết blog, vẫn học hành, kiếm sống, lo trả tiền trọ… Và ta đừng quên là, trong một xã hội độc tài thì đôi khi, ngay cả việc một nhóm thanh niên đi nhặc rác ở công viên cũng đã bị cấm cản, rất có thể chỉ là vì họ vốn bị coi là “phản động” – tức là bị coi như một giống dân khác với thứ hạng thấp kém hơn.

Đó là chưa kể, những người tham gia “Tôi không thích” chưa từng có lời nói hay hành động nào bạo lực, với cùng sự nhiệt huyết và hung hăng như “cha ông họ” mà một ví dụ là các nhà lãnh đạo đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam với khẩu hiệu “trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh thời kỳ 1930-1931.  

“Em đòi thay đổi thế giới, trong khi không thực sự biết sẽ thay đổi nó bằng gì, việc này chắc chắn sẽ dẫn đến đau khổ cho em và cho người khác, dù em thất bại hay thành công”. Trong một xã hội văn minh thì việc công dân thể hiện chính kiến và lựa chọn lực lượng chính trị thông qua lá phiếu sẽ chẳng đem lại đau khổ nào cả. Anh Bút Chì quả là đang dọa chúng em, cũng y như Đảng Cộng sản lâu nay vẫn dọa chúng em rằng “dân chủ, đa đảng là loạn”. 

“Tất cả bắt đầu từ chính mình”

Lập luận và thông điệp nổi bật nhất trong bài viết của Bút Chì có lẽ là về cuộc cách mạng bên trong, khi tất cả bắt đầu từ chính mình. Đây là một quan điểm nghe có vẻ rất thuyết phục, và nó phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới, không chỉ lúc này mà thường xuyên bấy lâu nay. Trong những cuốn sách kiểu “hạt giống tâm hồn” (chicken soup for the soul), chúng ta có thể bắt gặp đầy rẫy những câu đại ý:

Mỗi khi bạn thất bại, bạn cảm thấy cay cú, bạn đều muốn tìm ai đó để đổ lỗi: kẻ thù, đối thủ cạnh tranh, bạn bè, gia đình, chính phủ. Mỗi lần như thế, muốn biết kẻ đó là ai, bạn hãy nhìn vào gương.

Hàm ý của những câu như thế là: Mọi sự bắt đầu từ chính ta. Thất bại của cá nhân, xã hội phi dân chủ, mất tự do, chậm phát triển, cũng do mỗi cá nhân mà ra cả. Mỗi người cứ làm sao thay đổi chính mình là cả xã hội thay đổi.

Ở những nước nghèo, lạc hậu, chậm tiến như Việt Nam, quan điểm đó vô tình hay hữu ý loại bỏ vai trò của chính quyền cũng như những nỗ lực điều tiết, phối hợp chung. Nó cũng là một quan điểm duy ý chí nặng nề. Làm sao để hàng chục triệu người cùng đồng lòng tự làm cách mạng bên trong, thay đổi chính mình được, nếu không có một lực lượng làm nhiệm vụ của “nhạc trưởng”?

Tất nhiên, xã hội sẽ không thay đổi nếu mỗi thành viên của nó đều không chịu vận động. Ngay cả khi tất cả mọi người cùng vận động, mỗi người mỗi hướng, cũng không chắc một sự thay đổi đáng kể và quyết liệt nào sẽ đến. Nhưng cho dù có thế, cũng không thể trách mỗi người “đòi thay đổi thế giới, trong khi không thực sự biết sẽ thay đổi nó bằng gì”.

Lại chuyện “năng lượng”

Trong xã hội của chúng ta lâu nay, có một số người thường giải thích nhiều điều bằng những thứ có phần thần bí, tâm linh như “năng lượng”, “nghiệp”. Ví dụ, các tác giả của bài viết này từng được khuyên, đại ý: Không nên chỉ trích chính quyền, an ninh, quan chức tham nhũng, v.v. vì như thế là tạo khẩu nghiệp, rất có hại cho mình. Những lời lên án, phê bình, phản biện chẳng qua chỉ tạo khẩu nghiệp mà thôi, và điều đó đến lượt nó lại tiếp tục tạo ra nghiệp xấu.

Từ năm 1995, một nhà dân chủ Việt Nam là TS.ông Hà Sĩ Phu (tên thật là Nguyễn Xuân Tụ) đã từng chỉ ra kiểu ngụy biện “cao đạo, lẩn tránh” trong tiểu luận nổi tiếng của ông, “Chia tay ý thức hệ”.

“Chính trị là bẩn thỉu, dính đến làm gì? Ông cứ lo viết văn, lo làm khoa học, làm nghệ thuật có phải vừa thanh cao lại vừa an toàn, vừa bổ ích không?”. 

“Giải pháp gì cũng vô ích, vì con người "tham, sân, si" mà ra cả. Cái gốc là phải trở về cái gốc thiện của con người! Bây giờ tôi đang nghiên cứu Kinh Dịch! Phải đọc Phật giáo ông ạ!”.

“Đấu tranh giai cấp đã là sai rồi, nay lại đấu tranh chống nó thì lại sai tiếp. Vấn đề là thiện và ác thôi. Ông nên đi vào thiền, yoga, khí công, nhân điện... là thấy thanh thản ngay!”.

Những lời tác giả Bút Chì nói, về năng lượng, cách năng lượng được tạo ra từ nỗi tức giận và lan truyền, v.v. không có gì khác ngoài việc lặp lại lối ngụy biện “cao đạo, lẩn tránh” mà TS. Hà Sĩ Phu đã chỉ ra từ 20 năm trước.

Chính quyền (độc tài) nào chắc cũng chỉ mong người dân cao đạo, tránh khẩu nghiệp, gìn giữ năng lượng, để đừng tham gia chính trị và nhất là đừng làm gì đòi hỏi, thúc ép, thách thức nhà nước. 

Nhưng là một công dân tốt, không thể nào tránh né việc có một thái độ chính trị theo hướng bảo vệ nhân quyền, trong đó có quyền tham gia chính trị và quyền biểu đạt chính kiến, của những người khác.

Monday 12 January 2015

Tự do âm và tự do dương

(Luật Khoa tạp chí) - Từ tháng 1 này, Luật Khoa tạp chí sẽ đăng tải một loạt bài với chủ đề “Triết học chính trị dành cho luật sư”, tổng hợp những kiến thức phổ quát về triết học chính trị. Các bạn sẽ tìm thấy ở đây những định nghĩa, kiến giải và phân tích về các khái niệm căn bản nhất nhưng cũng là những điều người Việt Nam nói chung lâu nay ít được tiếp cận: tự do, công lý, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền, tính chính danh của nhà nước và nghĩa vụ chính trị của công dân trong xã hội, v.v. Bài đầu tiên giới thiệu với các bạn khái niệm tự do.


* * *

Một trong các nguyên nhân khiến nhiều cuộc thảo luận, tranh luận của người Việt, trên mạng hoặc ngoài đời, thường bị “tắc tị”, là do các bên tham gia không hiểu và/hoặc không thống nhất được với nhau về các khái niệm cơ bản, tức là vấn đề định nghĩa.

Một trong nhiều chủ đề gây tranh cãi là tự do. Và chủ đề này không chỉ gây tranh cãi mà đôi khi còn là nguồn gốc của những căng thẳng, mâu thuẫn về chính trị trong xã hội, khi có những người đấu tranh đòi hỏi “tự do cho Việt Nam” và có những người không hiểu tại sao lại phải “đòi tự do” ở một đất nước ổn định chính trị, không có chiến tranh, không phải thuộc địa, như Việt Nam.

Muốn thảo luận một cách nghiêm túc, có chất lượng khoa học, thì trước hết các bên phải thống nhất được với nhau về một số điểm, như quy tắc tranh luận, tức là “luật chơi”, và các thuật ngữ hay khái niệm chung.

Vậy, tự do là gì?

Bạn thích định nghĩa nào?

Xưa nay đã có nhiều triết gia định nghĩa về tự do. Ví dụ, độc giả Việt Nam hẳn là đã quen thuộc với định nghĩa này của Friedrich Hegel (1770-1831): “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Nó được đưa hẳn vào chương trình giáo dục công dân hay có thể coi như chương trình triết học căn bản phổ thông trong các trường học ở Việt Nam.

Để làm cho định nghĩa của Hegel trở nên dễ hình dung hơn, giáo viên có thể giải thích: “Đây nhé, các em là học sinh, nghĩa vụ của các em là đến trường, đi học. Khi đi học thì phải làm bài đầy đủ, thi cử nghiêm túc. Đó là những nghĩa vụ tất yếu. Các em ý thức được đó là cái tất yếu thì các em sẽ học hành chăm chỉ, không trốn tiết, bỏ thi, và cứ làm đúng như thế là các em có tự do. Nếu không làm đúng như thế thì các em sẽ bị trừng phạt, tức là bị kỷ luật, bị thầy cô giáo và cha mẹ nhắc nhở và mất tự do. Như thế nghĩa là tự do là nhận thức cái tất yếu”.

Có thể bạn sẽ thấy với định nghĩa này, tự do vẫn có cái gì đó hạn hẹp quá, trong khuôn khổ quá. Tóm lại, nó không thỏa đáng.

Một triết gia khác, John Locke (1632-1704), đưa ra định nghĩa: “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào”.

Căn cứ vào định nghĩa của Locke, rõ ràng là nếu ai cũng có thể làm bất cứ điều gì mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào, thì cuối cùng tự do của người này sẽ xâm phạm và cản trở tự do của người kia; hay nói cách khác, tự do của người này đồng thời lại là sự mất tự do của người kia. Có thể nào như vậy chăng? Định nghĩa này xem ra cũng không thỏa đáng lắm.

Năm 1958, có một triết gia người Do Thái, sinh ra tại Nga nhưng di tản sang Anh, đã có một bài giảng nổi tiếng nhan đề “Hai khái niệm tự do” [Two Concepts of Liberty]. Ông cho rằng, tồn tại hai loại, hay nói đúng hơn, hai cách hiểu về tự do: Tự do âm và tự do dương. Định nghĩa của ông về hai khái niệm tự do này chưa được biết đến nhiều ở Việt Nam, nhưng có lẽ nó lại giúp chúng ta có hình dung về tự do một cách đầy đủ và rõ ràng nhất. Ông là Isaiah Berlin (1909-1997).

Tự do âm là gì?

Đây là cách hiểu chung của Thomas Hobbes, John Locke, Friedrich von Hayek và Ludwig von Mises về tự do, theo đó, tự do là khả năng một người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn mà không chịu sự can thiệp nào từ bên ngoài. Từ gốc trong tiếng Anh là “negative freedom”, trong đó từ “negative” có thể được dịch sang tiếng Việt là âm tính, phủ định, tiêu cực, thụ động. Tuy nhiên, tự do âm hoàn toàn không mang nghĩa tiêu cực, mà chỉ hàm ý là không có sự can thiệp từ bất cứ ai/cái gì bên ngoài. Hiểu như vậy thì chính tự do âm mới là tự do tuyệt đối.

Trong tác phẩm “Hiến pháp của tự do” [The Constitution of Liberty], cho rằng hình thức can thiệp phá vỡ tự do nhất là sự cưỡng chế, cưỡng ép [coercion] – tức là những hành động có chủ ý của một/các cá nhân khác nhằm khống chế/ kiểm soát môi trường hoặc hoàn cảnh của một người nào đó, buộc người ấy phải hành động (hoặc không hành động) không theo ý chí thống nhất của mình mà là theo ý muốn của một/các cá nhân khác đó.

Định nghĩa của Hayek về sự cưỡng chế, cưỡng ép có hai điểm quan trọng là “hành động có chủ ý” và “của cá nhân khác”. Ví dụ, nếu bạn bị rơi xuống hang và bị kẹt trong đó, không ra được, thì như thế không phải là mất tự do. Chỉ khi có kẻ nào đó đẩy bạn vào hang và/hoặc nhốt bạn trong hang (có chủ ý) thì khi ấy bạn mới mất tự do. Ngay cả nếu kẻ kia chỉ vô tình khóa bạn lại trong một căn buồng (không chủ ý) thì cũng không thể nói bạn mất tự do được.

Ngoài ra, nếu bạn bị cản trở hành động bởi những nguyên nhân bên trong bạn (không phải các tác nhân bên ngoài) thì đó cũng không phải là sự can thiệp làm mất tự do. Một người tàn tật, ốm yếu chẳng hạn, không thể đi bộ băng qua đường nếu không có ba-toong hay xe lăn, thì cũng vẫn được coi là tự do: Anh/chị ta có quyền tự do sang đường.

Friedrich von Hayek (1899-1992)

Tự do dương là gì?

Từ việc tự do âm hàm ý không có sự can thiệp, có thể suy luận rằng tự do dương là thứ tự do có điều kiện. Tự do dương [positive freedom] là việc một người có thể và thực sự có khả năng hành động theo ý nguyện của mình. Nói cách khác, cá nhân có tự do (dương) khi anh/chị ta làm chủ chính mình và có thể tự chịu trách nhiệm về hành động của bản thân.

Như vậy, một người tàn tật, ốm yếu, không thể đi bộ băng qua đường dù muốn lắm, thì là người mất tự do. Anh/chị ta bị hạn chế tự do bởi vì không làm chủ được cơ thể mình, đôi chân của mình. Những người nghèo, dù được toàn quyền mua nhà ở, thức ăn nước uống, quần áo, nhưng không có nổi tiền để mua những thứ đó dù rất muốn, thì cũng là không có tự do. Anh/chị ta bị hạn chế tự do bởi vì không có đủ năng lực (tài chính) để hành động theo ý nguyện cá nhân.

Một triết gia đại diện cho cách hiểu này về tự do là Jean Jacques Rousseau (1712-1778).

Từ hai khái niệm về tự do nói trên, bạn có thể thấy: Theo quan điểm của những người ủng hộ “tự do âm”, nhà nước tôn trọng “tự do âm” của người dân là nhà nước tối thiểu, ít can thiệp nhất có thể [minimal state]. Còn đối với những người theo quan niệm về “tự do dương”, nhà nước tôn trọng “tự do dương” của người dân là nhà nước có những biện pháp để thúc đẩy xã hội theo hướng họ muốn, ví dụ xóa đói giảm nghèo để tăng năng lực cho một bộ phận dân chúng, đánh thuế để điều chỉnh thu nhập của người giàu và chia cho người nghèo, v.v.

Isaiah Berlin cho rằng cách hiểu về tự do theo nghĩa “tự do dương” thật ra rất nguy hiểm vì nó gợi ý khả năng một hoặc một số người tự cho mình quyền phán xét xem ai đang tự do, ai đang không tự do. Trên bình diện xã hội, nó mở đường cho việc nhà nước can thiệp, định hướng, và kịch bản tồi tệ nhất là trở thành chuyên chế.

Còn bạn, bạn ủng hộ kiểu tự do nào?

Dựa theo cuốn “Political Philosophy: A Complete Introduction”, Phil Parvin & Clare Chambers, 2012.