Monday 31 December 2012

Nguyễn Công Hùng và Internet Việt Nam

Ngày cuối cùng của năm, nhận được một tin buồn: Hiệp sĩ CNTT Nguyễn Công Hùng đã từ trần đột ngột chiều 31-12-2012 tại TP.HCM, vì bạo bệnh. Tôi chỉ vừa gặp anh cách đây đúng một tháng, để viết bài nhân sự kiện 15 năm Internet Việt Nam. Xin đăng lại bài viết này để thành kính phân ưu. Cầu mong anh yên nghỉ.

* * *

KHÔNG GIAN CÔNG CỘNG CỦA THỜI TOÀN CẦU HÓA

  • “Tôi không hình dung được Việt Nam mình khi không có Internet. Còn với riêng tôi, nếu không có Internet, chắc tôi đã chết rồi” – Hiệp sĩ Công nghệ Thông tin Nguyễn Công Hùng chia sẻ.

Việt Nam nối mạng Internet toàn cầu từ ngày 19-11-1997. Đến giờ, nhiều thanh niên “thế hệ 7x-8x” vẫn nhớ một mẩu quảng cáo nho nhỏ trên truyền hình Việt Nam vào những ngày trước khi xảy ra sự kiện đó: Hai hiệp sĩ vừa đấu kiếm, vừa trò chuyện và tỏ ra hiểu khá nhiều về nhau. Một chàng hỏi chàng kia: “Vì sao anh biết?”. Trả lời: “Tôi đọc trên mạng Internet”.

Thời gian ấy, không nhiều người Việt hiểu được mẩu đối thoại trên giữa hai chàng kiếm sĩ. Có lẽ cũng rất ít người hình dung được Internet rồi sẽ tạo ra những thay đổi chóng mặt, không bao lâu sau.

Năm 2010, Đại hội thành lập Hiệp hội Internet đã chọn ngày 1-12 khi Việt Nam chính thức hòa mạng là Ngày Internet Việt Nam.

Đời thay đổi khi có Internet

Hiệp sĩ CNTT Nguyễn Công Hùng có lẽ là người hiểu và “biết ơn” Internet hơn ai hết. Sinh năm 1982 tại một vùng nông thôn nghèo ở Nghi Lộc (Nghệ An), không may bị tật nguyền từ nhỏ, hết lớp 7, Hùng không có điều kiện để học lên nữa. Anh sống khép kín, mang trong lòng nhiều nỗi buồn và mặc cảm, không có bạn bè gì và như lời anh nói, “chỉ quanh quẩn trong nhà cả ngày, u uất và ốm bệnh liên miên”.

Hùng vẫn nhớ như in sự kiện quan trọng đã làm thay đổi đời anh: “Ngày 3-9-2001, tôi lần đầu tiên ‘được sờ vào’ bàn phím máy vi tính. Gần một năm sau đó, vào đầu mùa hè 2002, tôi biết đến Internet. Hồi ấy mạng được nối bằng công nghệ dial-up, một phút mất 200 đồng, ngồi mạng cả ngày, cứ thế mà nhân lên thì rất tốn tiền (cười). Trang web đầu tiên tôi vào là trang phổ biến kiến thức của Lê Hoàn – tôi là fan của ông ấy mà. Cả trang của Phạm Hồng Phước nữa”. (Lê Hoàn và Phạm Hồng Phước, sinh năm 1957, cũng đều là Hiệp sĩ CNTT – NV).

Trong tiếng Anh, có khái niệm “cyber fear” (sợ mạng) để chỉ tâm lý của những người bị choáng ngợp, hoang mang khi lần đầu tiếp xúc với Internet. Ở Việt Nam, không có thống kê chính thức, song theo một nhà xã hội học ở Hà Nội thì một số người (đặc biệt thuộc thế hệ 5x-6x) cũng rơi vào tình trạng này, ngại và sợ Internet, từ đó dẫn tới việc lảng tránh Internet và cuối cùng bị tụt hậu. Nhưng Công Hùng chẳng hề có cảm giác đó, trái lại, anh thấy rất vui ngay từ lầu đầu tiên lên mạng. Anh đùa thêm: “Tôi còn lập nick chat trên Yahoo, và ngay từ buổi chat đầu tiên là đã quen được một em gái Hà Nội”.

Hùng nhanh chóng học được vô vàn kiến thức từ Internet, nhất là trong lĩnh vực anh yêu thích là tạo web. Không bao lâu sau, anh trở thành chuyên gia (tự học) về web, lấy việc thiết kế web làm nghề chính để kiếm sống. Không chỉ tự nuôi mình, anh còn mở một trung tâm dành cho người khuyết tật, thường xuyên mở các khóa đào tạo về tin học cho các bạn cùng hoàn cảnh.

“Trước khi có Internet, tôi rất hay ốm đau, vì cuộc sống biệt lập với thế giới bên ngoài. Nhưng bước vào thế giới ảo, mình gặp gỡ nhiều và cảm thấy vui tươi, khỏe khoắn, tinh thần thoải mái hẳn lên và thế là sức khỏe cũng tốt hơn hẳn”.

Với Hùng, Internet mang lại cho anh quá nhiều: công việc, bạn bè, tình cảm. Mạng còn là một người thầy, khi mà mọi thứ anh học đều hoàn toàn từ Internet. “Tôi không có điều kiện đến lớp này đi lớp kia để học những gì mình muốn. Chỉ có Internet thôi. Nó đúng là thầy. Nếu không có Internet thì tôi chết rồi, chết thật sự, chết nghĩa đen chứ không chơi đâu” – Hiệp sĩ CNTT khẳng định.

Từ “agora” thời Hy Lạp đến Internet thời nay

Dịch giả Phạm Anh Tuấn – người chuyển ngữ cuốn “Dân chủ và giáo dục” của John Dewey – cho rằng cái lớn nhất mà Internet đem đến cho mọi người là thông tin (information), trên nền tảng đó, người ta sẽ tổng hợp thành kiến thức (knowledge). “Nói cách khác, thông tin thì chưa phải là kiến thức. Từ thông tin đến kiến thức là một khoảng cách rất xa, mà từ kiến thức lên đến tầm nhận thức (awareness) thì đường còn xa hơn nữa”.

Tuy vậy, dù thế nào thì Internet cũng giúp tất cả mọi người đạt được mức tối thiểu là thông tin. Nó san bằng các rào cản, nối liền các khoảng cách. Ông Tuấn cho rằng Internet chính là hình thức tiếp nối của “không gian công cộng” hay là môi trường sinh hoạt dân chủ, vốn có từ thời Hy Lạp cổ đại dưới hình thức các “agora”. (Agora là nơi người dân ở các thành bang Hy Lạp cổ gặp gỡ để họp chợ, trao đổi thông tin, thảo luận, nghe ban bố các quyết định của chính quyền, v.v. – NV).

“Không gian công cộng nằm giữa quyền lực của nhà nước và nhân dân. Khi không gian công cộng trùng vào Nhà nước thì không còn tranh luận. Khi nó tách ra, nằm giữa hai bên, thì mọi lựa chọn, mọi quyết định thắng thua sẽ phải dựa vào tranh luận. Bất kỳ khi nào có một nhóm người nào tập hợp lại với nhau để thảo luận một vấn đề vì lợi ích chung (có khi chẳng liên quan gì đến chuyên môn của họ) thì lập tức hình thành không gian công cộng” – ông Tuấn giải thích.

Dịch giả cũng nhận định: “Nói chung các chính quyền sợ không gian công cộng, nhưng nó là cái bắt buộc phải có. Nếu không thì mọi sự sẽ bị quyết định bởi quyền lực của nhà nước, thay vì thông qua tranh biện, thảo luận. Và Internet là phương tiện để tạo ra những không gian công cộng như thế. Hay nói cách khác, không gian công cộng, cái agora của thời đại này chính là Internet. Nó tạo nên một nền dân chủ điện tử. Chế độ nào không có không gian công cộng tức là quay trở lại thời phong kiến, khi mà mọi quyết định đều nằm ở nơi triều đình”.

“Độc dược” với người này, thuốc bổ với kẻ kia

15 năm phát triển ở Việt Nam, Internet đã làm thay đổi toàn diện đời sống xã hội. Nó tạo ra quá nhiều “văn hóa”: văn hóa tranh luận, văn hóa diễn đàn, văn hóa game online, văn hóa đọc, văn hóa blog v.v. Có những người như Nguyễn Công Hùng, trở thành Hiệp sĩ CNTT, có một cuộc sống mới, tốt đẹp từ Internet, nhưng cũng có những người chỉ đốt thời gian trên mạng vào việc chat chit, chơi game, hoặc “đọc các thứ linh tinh, nhảm nhí” như có nhiều ý kiến từng phản ánh.

Điều đó, theo dịch giả Phạm Anh Tuấn, cũng là bình thường, bởi không phải mọi người vào mạng Internet đều có thể biến thông tin thành kiến thức và nhận thức; Internet có thể là một kho tàng tri thức đối với một số người nhưng lại là thứ làm một số người khác chỉ mất thì giờ vô bổ. Tuy nhiên, ông cho rằng dù có như thế thì Internet vẫn là không gian công cộng quý giá, cần được duy trì và phát triển, và chẳng nên hoang mang vì mặt trái của Internet. Ở một số nước phát triển, biện pháp gọi là “quản lý” duy nhất là các phần mềm cha mẹ được khuyến cáo cài vào máy để tránh cho con cái họ truy cập phải các trang web đen.

Hiệp sĩ CNTT Nguyễn Công Hùng thì nhận xét, việc thanh thiếu niên chỉ tiếp xúc với mặt tiêu cực của Internet, nghiện chat, nghiện game… là có thực, song hoàn toàn có thể tránh được nếu gia đình, nhà trường và xã hội có sự định hướng tốt. “Chẳng hạn, tôi thấy các chương trình đưa máy tính về nông thôn, miền núi mới chỉ dừng lại ở việc mang cái máy đến trường cho học sinh, và thế là xong. Như vậy là việc phổ cập chưa có chiều sâu, chưa đạt hiệu quả. Lẽ ra cho người ta máy thì cũng nên có thầy hướng dẫn, có những chương trình đào tạo dài hơi sau đó”.

“Thực tế cho thấy là ở các quốc gia sản xuất game online, tạo ra diễn đàn, blog… các loại, người ta lại không thấy tình hình đáng lo ngại như mình. Không có nhiều café Internet, trẻ con cũng không lang thang quán game nhiều như ở ta. Vì vậy, đừng nên trách Internet” – dịch giả Phạm Anh Tuấn khẳng định.

* * * 

Internet Việt Nam xuất hiện ngày 19-11-1997, khi đó đặt dưới sự quản lý duy nhất của VNPT. Cho đến tháng 3-2012, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số người sử dụng Internet ở Việt Nam đã đạt 32,1 triệu với số thuê bao Internet trên cả nước ước tính là 4,2 triệu thuê bao.

Một cuộc khảo sát của Net Index vào năm 2011 cho biết, thư điện tử (60%) và tin nhắn (73%) là hai phương tiện kết nối trực tuyến thịnh hành của người dùng Internet Việt Nam. Xem tin tức trên mạng, truy cập trang chủ các cổng thông tin và sử dụng công cụ tìm kiếm là ba hoạt động trực tuyến phổ biến nhất lần lượt chiếm 97%, 96% và 96% số người tham gia. Số lượng người sử dụng mạng xã hội tăng từ 41% năm 2010 lên 55% năm 2011.

Tuesday 25 December 2012

Trước phiên xử ba blogger, nghĩ về "quyền được biết"

Bức ảnh này (không rõ nguồn), với tôi, thể hiện rõ cuộc đối đầu giữa một bên là một cá nhân nhỏ bé, đấu tranh vì tự do ngôn luận, với một bên là cả lực lượng công quyền hùng hậu, xuất phát từ ý thức “bí mật là sức mạnh của chúng ta” mà quan niệm rất rõ rằng “dân không cần biết những điều không cần biết”, “Đảng và Nhà nước đã có chính sách cả rồi”.


Với tôi, Điếu Cày như là hiện thân của nhu cầu mãnh liệt về “quyền được biết”, “quyền tiếp cận thông tin” của người dân.

Bạn. Có thể bạn làm công việc không tiếp xúc nhiều với thông tin hoặc quản trị thi thức. Có thể bạn ghét và/hoặc sợ chính trị. Có thể bạn thích sự ổn định và trật tự. Có thể bạn nghĩ những cá nhân như Điếu Cày là kẻ gây rối, làm loạn xã hội. Có thể bạn nghĩ người dân Việt Nam, nhất là dân nghèo, cần cái ăn cái mặc trước mắt hơn là cần những thứ nghe có vẻ trừu tượng là “thông tin”, xa hơn nữa là “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận”, “dân chủ”…

Bạn biết không, vào năm 1999, nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới người Ấn Độ Amartya Sen (Nobel Kinh tế 1998) đã nói rằng thông tin mang tính quyết định sống còn đối với công cuộc phát triển và ngăn ngừa thảm họa (nạn đói, dịch bệnh, thiên tai...). Ông khẳng định rằng nạn đói chưa bao giờ xảy ra tại các quốc gia có một nền báo chí tự do, và dân chủ. “Báo chí tự do và lực lượng chính trị đối lập chủ động, hai yếu tố đó tạo nên hệ thống cảnh báo sớm tốt nhất mà mỗi nước bị nạn đói đe dọa lẽ ra đã phải có”.

Trong kỷ nguyên thông tin, những gì Amartya Sen nói về giá trị của thông tin càng đúng hơn nữa. Sự thịnh vượng và phát triển bắt nguồn từ tri thức. Tất cả các quốc gia giàu thông tin (tức là thông tin dồi dào, thông suốt, xã hội hướng đến minh bạch) đều là các nước giàu. Không có ngoại lệ.

Và, đồng thời với đó, “người nghèo không thể có quyền gì nếu họ không biết quyền của họ. Nếu họ không hiểu biết về luật pháp để có thể hưởng các quyền họ có, không hiểu về các cơ chế mà họ có thể sử dụng để chống lại đói nghèo, thì họ sẽ mãi mãi đói nghèo” (Sheila S. Coronel, 2001). Muốn hiểu biết thì họ phải có thông tin. Không chỉ là thông tin về các vụ trộm-nghiện-lừa-cướp-giết-hiếp, không chỉ là chuyện sao này lộ hàng, sao kia “thả rông” vòng 1, mà còn nhiều hơn thế, đa dạng hơn thế gấp bội. Từ thông tin quy hoạch, thông tin về các chính sách của nhà nước, nguyên nhân và ảnh hưởng tới các nhóm khác nhau trong xã hội, đến cơ chế vận động tranh cử, sử dụng nhân sự, cơ chế ra quyết định, đến cách tòa án xét xử một vụ việc cụ thể, cách vận dụng luật pháp để tranh biện… Ngay cả khi bạn nghĩ rằng những thông tin đó chẳng liên quan gì đến bạn, bạn không cần và không muốn can dự, thì một điều chắc chắn vẫn là, khi bạn hiểu, bạn biết tất cả những cái đó, là bạn đã tự nâng mình lên một tầm cao hơn hẳn so với trước.

Có lẽ một số rất lớn trong chúng ta không biết rằng mình có “quyền được biết”. Trước khi mọi người dân đều ý thức được quyền ấy, thì xã hội cần lắm những người mang thân phận viên gạch lót đường như anh: blogger Điếu Cày.


Tuesday 18 December 2012

Journalism in pre-1975 Saigon - Chuyện làm báo ở Sài Gòn trước 1975


Please scroll down for the Vietnamese version, which is below the English translation.

For around one week every month, Mr. Y. (who asked to be unidentified) drives his bike to the Quan Doi (Military) Printing House No 2, where he spends the whole days checking the printing proofs of some articles for magazines from the Hanoi-based editorial office.

Very often does he use his pen to encircle the English words placed here and there in the articles. “Here, “golfer, this should be written in Vietnamese as “tay gon”, “gon thu”. Here, superstar should be replaced by “sieu sao”. Also this “computer”, why not translate it as “may vi tinh”?”

“A great many young journalists now are fond of using British or American English in their works, despite the fact that such words have their equivalent in Vietnamese. In many cases foreign words are used together with Vietnamse, making up phrases like “fan ham mo” (supporting fans), or “nap ca-po”,” said Y. “Journalists in Saigon before 1975, as I remember, never wrote such impure Vietnamese, and even if they did, the editors would correct the mistakes immediately.”

Y. lived his whole youth in Saigon (now Ho Chi Minh City). He graduated the Saigon Faculty of letters, majoring in English. During his study at college, he also worked as reporter for a daily newspaper, then he moved to write for a literary magazine. Now he is editor and proof-reader for some consumers’ magazines based in Hanoi.

“Old Saigon’s newspapers used a myriad of words which may sound so obsolete to readers nowadays. “Xe nha binh” (military automobiles), “tu that”, “tu gia” (private house), for instance. But the language was pure Vietnamese rather than being an amalgam of Vietnamese and foreign languages as it is now. There were not many commercials which sometimes included even an advertisement for tetter cures; so funny it was,” said Mr. Y. He believed that language is just one among countless different points between old Saigon’s newspapers and present-day media. But, after all, journalism is always the same – with joys, sorrows, youth enthusiasm, and tears.

A live language turns into a dead one

T.T.T., a journalist in former Saigon, now writes for some Vietnamese language newspapers abroad. She once expressed her anxiety that an old style of Vietnamese which was used on Saigonese media and publications may evaporate someday. A great many words have now fallen into oblivion, or are very seldom used, such as “so gia dinh” (family records), “bang khoan nha” (accommodation contract), “ga nghia” (commonlaw marriage), “giao hoc” (pedagogics), etc. After the war, the Saigonese vocabulary, in its turn, is supplemented with many new words from the North: “ho khau” (household register), “de xuat” (official proposal), “quyet sach” (policy-decision), “boi duong” (training), “kiem thao” (check and self-critism), etc. Since the country adopted its open policy, followed by the advent of the Internet in Vietnam, modern languages have increasingly booming. New words keep appearing at a dizzy speed in all academic fields as well as in daily life.

Nostalgists may regret a Vietnamese of the past which is now turning into an archaic or dead language. However, such is language – which keeps moving and changing in pace with life – and it is evident that old things die with the introduction of new things. The Vietnamese that old Saigon’s newspapers used once now is somewhat found on oversea media, especially in writings by old people. Young Vietnamese audience today may break into laughter on reading such expressions as “The Nuu Uoc Times (New York Times) today has the pleasure to report that…”

Correspondents and reporters

Apart from idiosyncracy, former Saigon’s newspapers are different to modern newspapers in many ways. For example, they differed in how a newspaper was managed. In addtion to official reporters, every daily newspaper hired the so-called “correspondents.” These were also reporters, but they specialized in reporting stuff news. Everyday they would drive their bicycles (or, more luxuriously, their “vélo-solex” or mobylette) around the city, collecting trivial pieces of news like “a car hitting a dog, a dog biting a car” before selling them to a variety of newspapers.

Reporters of all times seem to be the same. After every assignment they would indulge themselves by hanging around, chatting, and drinking in the pubs. Mr. Y. recollected the past, “If you worked for a wealthy newspaper, you had a lot of money; if you worked for a poor one, you did not have much money. Many reporters that worked for well-off newspapers lived such a debauched life as kings: they would go to night clubs, casinos, some even used drugs. But that’s the very reason why no news reporter was moneyed; only editors were.”

As a matter of fact, those wartime days were dangerous, so there were plenty of “salon” newspapers, i.e. those who would rather stay at home to write than go to the scene. Therefore ardent young reporters who did not flinch from going to war zones were overindulged by the editor. Mr. Y. himself often went to battlefields around Saigon, even to the Centre of Vietnam, which was then considered to be the most dangerous area, including “Nam, Ngai, Binh, Phu” (abbreviated from “Quang Nam, Quang Ngai, Binh Dinh, Phu Yen Provinces), to report on the agonizing life of peasants in times of chaos. “I was young then, so I was fervent and fond of travelling. It was really dangerous to be a war reporter under fatal bombardments. While Western journalists that I knew were insured very high against risks, local reporters never received any insurance.”

That may account for the fact that old Saigon media did not have world-famous war reporters like those working for AP, UPI, or Time. AP’s Nick Ut, who was widely known for the photo snapping a girl child running from napalm-bombings, was a very rare exception in photo journalism.

The multi-facet Saigon’s media

Saigon in the past has a huge range of newspapers. There were newspapers that overtly opposed to the corrupt Saigon administration, such as the Tin Sang (Morning news), whose editor was Ngo Cong Duc, who died in Ho Chi Minh City in 2007, Dien Tin (Telegraph) with the trenchant columnist Ly Quy Chung. Without any fear they made mockery of the inefficient Saigon administration, nicknaming President Thieu as “President Theo”, “Sau Theo” (“theo” is the Vietnamese for “scar”), or the US Ambassador to Saigon under the Johnson administration as “the refrigerator old man”. In late 1960s and early 1970s, the “hear-and-forget canards” column on the Tin Sang newspaper was very popular with readers with its satirical articles aimed at the Saigon regime.

At the other end, there were vigorously anti-communist newspapers. Also there were middle way/neutralist newspapers, “the third party” or “the third path”, just calling for peace and reconciliation and never openly going against the government despite the antipathy against them. One of the best-selling newspapers was Chu Tu’s Sống (To Live), notorious for its opposition agaisnt communism. Large circulation, however, did not guarantee that a newspaper was of high quality.

There were of course tabloids which specialised in reporting incidents like “a car hitting a dog”, “murder”, “love” (tinh in Vietnamese), “money” (tien), “imprisonment” (tu toi), etc., called “4T newspapers”. And it is unacceptable to go unnoticed of a “speciality” of newspapers those days: a daily newspaper must offer feuilletons (a French word meaning serial fictions which are published on media and may later be brought to books).

A feuilleton can be either dramatic, complicated and apathetic stories appealing to small businesses who want to kill their time, or wuxia (martial arts and chivalry) fictions. Among Vietnamese writers of those days, there were professionals in feuilletons such as Duong Ha, Nghiem Le Quan, Tung Long… Mr. Le Thanh Thai, a writer on legend-based feuilletons, said, “Writing feuilleton, in fact, is very difficult because you have to make it attractive to readers right from the start as well as maintain it everyday. Some authors even wrote 5 feuilletons for 5 different newspapers at the same time, thus went confused when they conjured up a character they had let die months before. Son Nam (a famous writer in the South of Vietnam) also wrote feuilletons, to which he added many stories about southern customs and traditions that were so popular with audience.”

But the best-selling author must be a foreign one: Jin Yong [a Chinese writer of martialart romaces based in Hongkong]. Almost all Saigon daily newspapers then competed in buying, translating and publishing Jin Yong’s fictions. The earlier they did, the better they sold, said Le Thanh Thai. The Political Commentary feature, for example, sold well not because of any interesting socio-political news story, but because it was often the first to publish Jin Yong’s fictions everyday.

And the disappoinments

Prior to 1975, almost no city in the south of Vietnam had its own newspaper (local newspaper). The majority was located in Saigon, whose population was less than five million. But the number of newspaper was tremendously high and, as Mr. Y. said, newspapers were often “owned by political parties or “god fathers” who just focused on their own interests rather than working for the sake of people.”

As there were many political parties competing for influence, newspapers got carried away in the process. In one case, the press spent lots of words in praise of a mayor who was member of a political party. The next day newspapers owned by an adverse party would reveal that he embezzled even relief money for the poor, and he may face death sentence if he was taken to court under Saigon’s laws. All the reporters were shocked. “I was disappointed,” Mr. Y. sighed, “In the end, journalists ended up being henchmen of different parties and persons.”

Given the stagnant economy which was totally dependent on the US, Saigon media almost never gave attention to the area of economics and policies. It just focused on politics, social events, culture, arts, and entertainment. The closer the regime got to its end, the more disintegrated and demoralized the press got, failing to reflect or to advocate any common goal of the society.

They succeeded, however, in recording a significant period in the history of one half of the country.

Many of the acerbic writers of the past have passed away: Le Ngo Chau, Ngo Cong Duc, Ly Quy Chung (Chanh Trinh), etc. Some chose to leave Vietnam, practicing journalism abroad, with fewer of them going in for the tiring and hopeless “anti-communist” course. The one-time feuilleton writer, Mr. Le Thanh Thai, held on to his pen, but ages have weekend his creative labour.

On his part, Mr. Y. has retired from journalism long ago. He spends most of the time on bonsai and pleasure fish, besides earning his living with the job of a proof-reader. “I find peace in bonsai and fish,” said he.

Then he took up the red-ink pen, quietly marking errors on the proofs scattered in front. He knew he would have to try to finish all the work within the morning before the magazines get printed and come out the next day.

* * *

CHUYỆN LÀM BÁO Ở SÀI GÒN TRƯỚC 1975

Mỗi tháng khoảng một tuần, ông Y. chạy xe máy tới nhà in Quân Đội 2 và ngồi đó cả ngày để kiểm tra, soát lỗi bản bông của mấy tờ tạp chí do tòa soạn ngoài Hà Nội gửi vào in.

Rất thường xuyên, ông dùng bút khoanh tròn những từ tiếng Anh xen lẫn trong bài, chi chít như xôi đỗ. Từ "golfer" này phải thay bằng "tay gôn", "gôn thủ" mới là tiếng Việt. Từ "super star" này thay bằng "siêu sao". Từ "computer" này nữa, sao không viết là "máy vi tính"?

"Nhiều nhà báo trẻ bây giờ sính dùng tiếng Anh, tiếng Mỹ trong bài quá, mặc dù nhiều từ có tiếng Việt tương ứng. Có khi lại dùng từ nước ngoài kèm theo tiếng Việt, kiểu như: fan hâm mộ, nắp ca-pô…” - ông Y. nói. "Tôi nhớ báo chí Sài Gòn thời trước 75 không ai viết tiếng Việt theo kiểu "ba rọi" như vậy, mà phóng viên có lỡ viết thì biên tập viên cũng sẽ sửa ngay".

Ông Y. sống cả tuổi trẻ của mình ở Sài Gòn cũ. Ông học Đại học Văn khoa Sài Gòn, ban Anh văn, vừa học vừa đi viết nhật báo rồi chuyển qua làm cho một tạp chí văn nghệ. Còn bây giờ, ông làm biên tập viên "kiêm" sửa morat cho mấy tờ tạp chí tiêu dùng của một tòa soạn ngoài Hà Nội.

“Báo chí Sài Gòn cũ có nhiều từ mà độc giả ngày nay đọc thì thấy rất cổ, "xe nhà binh", "tư thất", "tư gia"... Nhưng ngôn ngữ hồi đó thuần Việt chứ không lẫn tiếng nước ngoài nhiều như bây giờ. Còn quảng cáo thì không nhiều, có cả quảng cáo thuốc chữa lang ben, tức cười lắm” - ông Y. kể. Theo ông, ngôn ngữ chỉ là một trong rất nhiều điểm khác biệt giữa báo chí Sài Gòn cũ và báo bây giờ. Nhưng nghề báo thì bao giờ cũng vậy, là niềm vui, là nỗi buồn, là lòng nhiệt tình của tuổi trẻ và cả những giọt nước mắt.

Sinh ngữ thành tử ngữ

T.T.T., một người làm báo thời Sài Gòn cũ, hiện viết báo tiếng Việt ở nước ngoài, từng bày tỏ sự lo lắng về nguy cơ biến mất một thứ tiếng Việt mà người Sài Gòn hồi đó dùng, được thể hiện trên báo chí và văn học. Hiện nay, nhiều từ ngữ đã bị quên lãng hoặc rất hiếm được dùng như: sổ gia đình, bằng khoán nhà, gá nghĩa, giáo học v.v. Đổi lại, kho ngôn ngữ của người miền Nam sau giải phóng được bổ sung thêm rất nhiều "từ vựng": hộ khẩu, đề xuất, quyết sách, bồi dưỡng, kiểm thảo… Từ khi mở cửa nền kinh tế và Internet bùng nổ ở Việt Nam, ngôn ngữ hiện đại càng phát triển, từ mới xuất hiện chóng mặt trong mỗi lĩnh vực chuyên môn cũng như ngoài đời sống.

Những người hoài cổ có thể thấy xót xa cho một thứ tiếng Việt trong quá khứ, giờ sắp thành cổ ngữ hoặc tử ngữ. Nhưng suy cho cùng, ngôn ngữ là thế, luôn vận động và thay đổi cùng cuộc sống, cái mới sinh ra thì cái cũ phải mất đi. Tiếng Việt của báo chí Sài Gòn cũ giờ chỉ còn được dùng ít nhiều trong làng báo chí hải ngoại, đặc biệt bởi thế hệ cao tuổi. Độc giả trẻ ở Việt Nam ngày nay có thể bật cười khi đọc những câu như: “Tờ Nữu Ước Thời Báo loan tin…".

Thông tín viên và phóng viên

Ngoài văn phong, ngôn từ, báo chí Sài Gòn cũ còn rất nhiều điểm khác thời nay. Chẳng hạn về cách tổ chức. Ngoài các phóng viên chính thức, mỗi tờ nhật báo còn có một lực lượng "thông tín viên" (correspondent). Những người này cũng là ký giả, nhưng chỉ chuyên săn tin vặt. Hàng ngày, họ đạp xe (sang hơn thì chạy vélo-solex hay mobylette) đi khắp thành phố, lượm lặt những tin nho nhỏ dạng "xe cán chó, chó cắn xe"... để bán cho các báo.

Cánh phóng viên thì dường như thời nào cũng vậy, viết bài nộp tòa soạn xong là xả hơi, gặp nhau bàn chuyện nghề chuyện đời, rồi tán dóc, nhậu nhẹt. Ông Y. nhớ lại: "Làm báo giàu thì nhiều tiền, làm báo nghèo thì ít tiền. Nhiều phóng viên của các tờ báo giàu ăn chơi đế vương lắm, nhảy đầm, bài bạc, có người còn hút sách nữa. Nhưng chính vì thế nên thường không có nhà báo giàu mà chỉ có ông chủ bút là giàu thôi".

Thật ra thời đó chiến tranh nguy hiểm, phóng viên salon cũng nhiều. Vậy nên các tòa soạn mà có được phóng viên trẻ nhiệt tình, chịu khó ra vùng chiến sự để gửi tin bài về thì chủ báo “cưng” lắm. Bản thân ông Y. cũng hay tới các vùng chiến sự quanh Sài Gòn, thậm chí đến tận miền Trung, nơi được xem là chiến tranh ác liệt nhất như "Nam Ngãi Bình Phú" (Quảng Nam - Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên), để viết bài phản ánh về cuộc sống khổ cực của nông dân trong thời loạn lạc. "Hồi ấy tôi trẻ, nên nhiệt tình phơi phới, ham đi. Chứ chiến tranh bom đạn, làm phóng viên chiến trường nguy hiểm lắm. Các nhà báo phương Tây mà tôi biết đều được bảo hiểm rất lớn. Phóng viên bản xứ thì không thế".

Có lẽ đó cũng là một lý do khiến làng báo Sài Gòn cũ không có nhiều phóng viên chiến trường nổi tiếng tầm cỡ thế giới như đồng nghiệp ở AP, UPI, hay Time. Nick Út của AP (nổi tiếng với bức ảnh chụp em bé bị bỏng bom napalm) là một trường hợp hiếm hoi trong lĩnh vực báo ảnh.

Báo Sài Gòn cũ - mỗi tờ mỗi vẻ

Báo chí Sài Gòn cũ có nhiều loại. Có những tờ công khai chống chính quyền Sài Gòn tham nhũng, như Tin Sáng (chủ nhiệm là ông Ngô Công Đức, đã mất năm 2007 tại Thành phố Hồ Chí Minh), Điện Tín (cố nhà báo Chánh Trinh tức Lý Quý Chung là cây bút bình luận chính trị sắc sảo của tờ này). Họ châm biếm chính quyền kém cỏi, gọi "Tổng thống Thiệu" là "Tổng thống Thẹo", "Sáu Thẹo", hay Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn thời Johnson là "Ông già tủ lạnh", chẳng biết sợ. Những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, mục "Tin vịt nghe qua rồi bỏ" trên báo Tin Sáng đã có những bài viết trào phúng phê phán chế độ Sài Gòn, rất được độc giả ưa thích.

Ngược lại, có tờ báo chống cộng dữ dội. Và cũng có nhiều tờ trung lập, gọi là thuộc "thành phần thứ ba", "đường lối thứ ba" - kêu gọi hòa bình, hòa hợp hòa giải chung chung, không ưa gì chế độ miền Nam nhưng cũng không ra mặt chống đối. Một trong các báo có số bán ra nhiều nhất là Sống của Chu Tử, một tờ khét tiếng chống cộng. Tất nhiên, báo có lượng phát hành cao không nhất thiết là báo hay.

Dĩ nhiên là không thiếu cả những "lá cải" xanh xanh, chuyên đăng tin "xe cán chó", đâm chém, tình tiền, tù tội… được mệnh danh là báo "4T". Và không thể không kể tới một thứ "đặc sản" của báo chí hồi đó: Đã báo ngày thì phải có feuilleton (tiếng Pháp, chỉ truyện dài nhiều kỳ, đăng trên báo, sau có thể in thành sách).

Feuilleton có thể là truyện tình cảm xã hội, ly kỳ, éo le, đẫm nước mắt, đặc biệt hấp dẫn giới tiểu thương, hoặc là truyện chưởng, kiếm hiệp kỳ tình của Kim Dung. Nhà văn Việt Nam thời đó cũng có những người viết feuilleton chuyên nghiệp, như Dương Hà, Nghiêm Lệ Quân, Tùng Long... Ông L.T., một cây bút viết feuilleton thể loại dã sử, nhớ lại: "Viết feuilleton thật ra rất khó vì phải hấp dẫn, ăn khách ngay từ đầu, lại phải liên tục, hàng ngày. Có người viết đồng thời 5 feuilleton cho 5 tờ nhật báo khác nhau, đâm ra lẫn lộn, cho một nhân vật chết mấy tháng rồi lại dựng anh ta dậy. Nhà văn Sơn Nam hồi đó cũng viết feuilleton, nhưng lồng nhiều chuyện về phong tục, tập quán Nam Bộ vào, người đọc thích lắm".

Nhưng cái tên ăn khách nhất hẳn là một gương mặt ngoại quốc: Kim Dung. Ông L.T. bảo, hầu hết các nhật báo ở Sài Gòn đều tranh nhau mua, dịch và đăng tải truyện chưởng Kim Dung. Tờ nào đăng được sớm thì bán chạy lắm. Ví dụ tờ Chính Luận được nhiều người đọc không phải vì có tin tức chính trị - xã hội hay, mà vì mỗi ngày họ đều đăng truyện Kim Dung sớm nhất.

Và những nỗi thất vọng

Ở miền Nam trước năm 1975, hầu như các tỉnh không có báo riêng (báo địa phương). Toàn bộ báo chí tập trung ở Sài Gòn. Dân số trong thành phố ngày đó chưa tới một triệu. Vậy nhưng báo chí thì rất nhiều, và theo ông Y. thì báo "thường do các phe đảng hoặc các đại gia nắm, với mục đích phục vụ cho quyền lợi của đảng mình hoặc cho cá nhân thay vì nhân dân".

Vì có nhiều đảng phái chính trị tranh giành ảnh hưởng nên báo chí cũng bị cuốn vào cuộc. Có trường hợp báo chí vừa ca ngợi rùm beng một viên tỉnh trưởng người của đảng này hôm trước, thì hôm sau một tờ báo của đảng khác đã khui ra là ông ta tham ô đến cả tiền cứu trợ cho dân nghèo, nếu bị đưa ra tòa theo luật pháp của chính quyền Sài Gòn thì phải lãnh án tử hình. Phóng viên ngớ người cả loạt. Ông Y. thở dài: "Thấy mà ngán. Rút cục, nhà báo vô tình trở thành công cụ cho các đảng phái và cá nhân mà thôi".

Do kinh tế không phát triển, lệ thuộc hoàn toàn vào Mỹ, báo chí Sài Gòn hầu như không chú trọng tới mảng kinh tế hay các chính sách vĩ mô về điều hành kinh tế, chỉ nặng về chính trị, xã hội, văn nghệ, giải trí. Càng về những ngày cuối của chế độ, báo chí càng rệu rã, chia rẽ, không phản ánh hay cổ vũ được cho một lý tưởng chung nào của xã hội.

Tuy nhiên, dù sao nền báo chí miền Nam trước 1975 cũng đã làm được việc ghi lại một giai đoạn trong lịch sử của một nửa đất nước.

Những cây bút sắc sảo năm xưa giờ nhiều người đã mất: Lê Ngộ Châu, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung (Chánh Trinh)… Một số chọn con đường ra nước ngoài, làm báo bên đó, đôi ba người vẫn tiếp tục "cuộc chiến chống cộng" mệt mỏi và vô vọng. Cây viết truyện dã sử hồi nào, ông L.T., vẫn cầm bút, nhưng tuổi già đã làm sức viết của ông yếu đi nhiều.

Về phần mình, ông Y. nghỉ viết báo đã lâu. Phần lớn thời gian, ông vui chơi với cây cá cảnh, ngoài công việc biên tập kiếm sống. "Cây cá kiểng làm tôi thư thái hơn".

Nói rồi ông lặng lẽ cầm cây bút đỏ, đánh dấu những chỗ sai sót trên tập bản bông xếp ngổn ngang trước mặt. Phải làm cho xong trong buổi sáng nay để còn in, ngày kia báo ra rồi.