Showing posts with label sử kinh tế. Show all posts
Showing posts with label sử kinh tế. Show all posts

Wednesday, 11 May 2011

Đọc truyện đêm khuya: “Ô dù” và chủ nghĩa de Gaulle

Đây là phần tiếp theo trong cuốn sách “Vietnam – Rising Dragon” (Việt Nam – con rồng trỗi dậy) của Bill Hayton, nguyên phóng viên BBC tại Hà Nội. Tiêu đề của phần này do người dịch đặt. Quan điểm của người dịch không nhất thiết trùng quan điểm của tác giả. Người dịch không chịu trách nhiệm về việc kiểm chứng thông tin trong bài viết.


* * *


Để hiểu chuyện này xảy ra như thế nào, rất nên nhìn vào đường lối điều hành. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam muốn cai quản đất nước theo một hình thức tương tự như chủ nghĩa de Gaulle (Gaullism) ở Pháp. Dưới chế độ de Gaulle kiểu Việt Nam, một tầng lớp tinh hoa sau hậu trường (tức Đảng Cộng sản) sẽ vạch ra định hướng tổng thể về chính sách và sau đó ủy quyền việc thực hiện cho nhà nước (do Đảng kiểm soát). Chính phủ khi đó sẽ ra luật và sử dụng bất cứ nguồn lực nào có sẵn – hệ thống hành chính quan liêu của nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước (người dịch viết tắt: DNNN), khu vực tư nhân, giới đầu tư nước ngoài, các nhà tài trợ quốc tế hoặc bất kỳ ai khác – để thực thi chính sách. Và, từ phía sau hậu trường, Đảng sẽ giám sát, kiểm soát, cưỡng ép các diễn viên khác nhau vào vai để đảm bảo là chính sách được tuân thủ. Ít nhất đó là những gì Đảng muốn thấy. Sự thực lại thường không như thế. Đôi khi Đảng đóng vai trò như lực lượng gắn kết – ra quyết định và thực thi – đôi lúc lại chia rẽ, một phần vì vấn đề ý thức hệ nhưng càng ngày càng xuất phát từ chuyện các cá nhân và mạng lưới quan hệ đỡ đầu, bảo trợ cho cá nhân đó. Không ai được bầu vào ban lãnh đạo của Đảng – Bộ Chính trị, gồm 15 người – mà lại không phải xây dựng một mạng lưới vây cánh ủng hộ và đổi lại, phải cho vây cánh ấy lợi ích. Tìm hiểu xem một quyết định cụ thể nào đó là kết quả của ý thức hệ hay của lợi ích vây cánh thường là điều bất khả. Trong phần lớn trường hợp, có lẽ mỗi quyết định là kết quả của cả hai thứ này.

Lấy ví dụ ông T. (*) Điểm xuất phát của ông T. trước khi vươn lên vị trí quyền lực là chính quyền tỉnh Bình Dương, một tỉnh ngay sát TP.HCM. Ông đã góp phần biến tỉnh này thành một nhà máy năng lượng kinh tế, thu hút những luồng vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ, tạo ra hàng trăm nghìn công ăn việc làm và đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Ông đã làm được việc ấy bằng cách bẻ cong luật – xé rào – để làm vừa lòng giới đầu tư. Ông lách qua các quy định về quy hoạch để có được những khu công nghiệp, ông tiến hành những thỏa thuận về thuế để thu hút công ty nước ngoài và giúp doanh nghiệp một tay nếu họ cần. Phần thưởng cho thành công của ông là sự thăng tiến trong Đảng, đầu tiên lên vị trí lãnh đạo TP.HCM và sau đó làm nguyên thủ quốc gia. Nhưng căn cứ địa của ông vẫn ở Bình Dương và bây giờ nơi ấy là thái ấp của gia đình ông. Cháu trai của ông đã tiếp quản cương vị lãnh đạo tỉnh, gia đình ông kiểm soát nhiều cơ cấu hành chính trong tỉnh. Người Việt Nam hay nói chuyện ai đó “có ô dù”. Cái “ô” của ông T. đã che chở gia đình và mạng lưới vây cánh của ông ở Bình Dương, cũng như “ô” của những đồng sự của ông đã che chở gia đình, vây cánh của họ ở các địa phương khác. Sự che chở của họ cho phép các tỉnh, DNNN, và ngày càng nhiều cá nhân đứng đầu DNNN, quyền tự do bẻ cong và phá luật, vì biết là mình được “bảo vệ” trước pháp luật. Tuy nhiên cũng có giới hạn cho việc một lãnh đạo cấp nhà nước có thể thúc đẩy lợi ích của vây cánh địa phương mình tới đâu. Cuối cùng thì lợi ích quốc gia vẫn tồn tại đó. Chính sách phải là kết quả của sự đồng thuận: lợi ích của quốc gia, phe phái và địa phương đều phải được thỏa mãn. Nhưng để đạt tới đồng thuận thường đòi hỏi các bên phải đánh nhau rất dữ.

Đầu năm 2008, chính phủ nhận thấy rằng bong bóng bất động sản và chứng khoán đã phình quá to. Tác động của thời kỳ hoang dã này đối với thị trường chứng khoán tràn cả ra bên ngoài. Năm 2006, chỉ số chứng khoán quan trọng nhất, VNI trên Sở Giao dịch TP.HCM, đã tăng 145%. Trong hai tháng rưỡi đầu năm 2007, nó tăng thêm 50% nữa. Sàn giao dịch của các công ty môi giới lớn trong thành phố đầy chật người tham gia. Một số dốc hết tiết kiệm vào ván bạc trên thị trường. Niềm lạc quan không bị kiềm chế chút nào. Ngày 12 tháng 3 năm 2007 VNI lên mức kỷ lục 1.170 điểm. Nó sẽ không bao giờ đạt tới điểm đó lần nữa. Nó nhảy qua lại một tí, và vào cuối năm vẫn tăng khoảng 20%. Nhưng sau đó, sang năm 2008, nó sụp đổ. Chỉ số này rơi một mạch 70%, quét sạch khỏi thị trường rất nhiều nhà kinh doanh chứng khoán thời ấy cùng những gia đình đã đánh bạc bằng cả khoản tiết kiệm của họ. Lạm phát tăng 30%, các hộ dân ở thành phố không đủ sống, công nhân nhà máy đình công và bất mãn ngày càng tăng. Tình hình bắt đầu giống như sự khởi đầu của một mối đe dọa đối với quyền lãnh đạo của Đảng. Đã đến lúc các nhà lãnh đạo phải phản công.

Tháng tư năm 2008, Thủ tướng Dũng công khai đề nghị các DNNN hạn chế những ngành kinh doanh không phải lĩnh vực chính của họ ở mức 30% tổng vốn. Việc chính phủ phải xuống nước “kêu gọi” DNNN tuân thủ luật pháp đã bộc lộ những vấn đề mà chính phủ đang phải đối diện trong nỗ lực duy trì quyền kiểm soát. Các DNNN chẳng nghe; đánh nhau nội bộ sau hậu trường càng tăng lên. Chính phủ buộc phải thử một con đường khác. Ngân hàng trung ương – đơn vị đã và đang cho các tổng công ty vay rất dễ dàng với lãi suất thấp và lượng cung tiền hào phóng – nhận lệnh vào cuộc. Lãi suất được nâng lên và dòng tiền cho vay bị giảm xuống. Những cái ô bảo trợ được cất đi; lãnh đạo bắt buộc phải hành động vì lợi ích quốc gia. Có kết quả: nền kinh tế hạ nhiệt và khủng hoảng giảm bớt.

Ban đầu các tổng công ty vận hành theo mô hình chaebol của Hàn Quốc. Các chaebol có rất nhiều nhược điểm, nhưng một số, chẳng hạn Hyundai và Samsung, quả thật đã trở thành các nhà xuất khẩu lớn. Các tổng công ty của Việt Nam kém thành công hơn thế nhiều: VinaShin giành được đơn đặt hàng là nhờ ra giá thấp dưới mức chi phí, còn các hợp đồng bán dầu của PetroVietnam ở Cuba và Venezuela thì là kết quả của chính sách ngoại giao của nhà nước hơn là năng lực kinh doanh. Nhiều công ty dệt may quốc doanh bị thua lỗ và ngành thép thì cũng lạc hậu. Nhưng khu vực quốc doanh vẫn cứ là trụ cột cho sự kiểm soát của Đảng – vừa là công cụ để thực thi chính sách kinh tế vừa là biện pháp làm hài lòng vây cánh ở địa phương, công đoàn và những nhóm lợi ích khác. Mặc dù nhiều DNNN đang bị bán đi, Đảng vẫn nêu rõ quyết tâm giữ lấy 50-100 DNNN quan trọng nhất. Chúng tiếp tục hưởng lợi từ sự hào phóng của nhà nước. Mặc dù cái thời kỳ ngân hàng quốc doanh cho vay dễ dàng nhìn chung đã thuộc về quá khứ rồi, nhưng vẫn còn vô số cách để bơm tiền cho DNNN. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (ngân hàng quốc doanh, được thành lập từ tiền viện trợ của các chính phủ nước ngoài) và Quỹ Bảo hiểm Xã hội của nó (được kỳ vọng trở thành nhà đầu tư đơn lẻ lớn nhất trong nước vào năm 2015) dường như đang vận hành giống như những “quỹ đen” không minh bạch, phục vụ lợi ích của khu vực nhà nước. Rõ ràng DNNN có một tương lai quan trọng, không nhất thiết tươi sáng, ở phía trước.

* * *

Sự đan xen xoắn xuýt giữa Đảng và doanh nghiệp không chỉ giới hạn trong khu vực nhà nước mà còn lấn át cả ở khu vực tư nhân. Nhiều công ty “tư nhân” đều từng là DNNN hoặc vẫn còn có phần sở hữu của nhà nước, hoặc đang do đảng viên cai quản. Thậm chí các công ty thật sự là tư nhân cũng gần như không thể có được giấy phép, giấy đăng ký, giấy tờ thủ tục hải quan hoặc nhiều loại giấy tờ quan trọng sống còn khác, nếu không có quan hệ tốt. Công ty nào không tham gia cuộc chơi thì sẽ mau chóng gặp rắc rối. Khảo sát cho thấy ngay cả ngân hàng tư nhân cũng thích cho những người “có quan hệ” vay tiền hơn. Hầu hết những người kiểm soát các đỉnh cao chỉ huy của khu vực tư nhân đều hoặc là do Đảng chỉ định, hoặc người thân, bạn bè của người được chỉ định đó. Tầng lớp tinh hoa của Đảng Cộng sản đang biến chủ nghĩa tư bản Việt Nam thành kiểu công ty gia đình. Tầng lớp tinh hoa mới trong giới thương nhân thì không tách khỏi Đảng Cộng sản mà lại là thành viên của Đảng, hoặc có liên quan tới Đảng...

Trên thực tế là quá nhiều, đến mức người Việt Nam bây giờ có một “thành ngữ” đặc biệt để định danh những trường hợp như thế: “COCC”, hay “5C”. COCC là lớp người ít thâm niên hơn trong tầng lớp elite cộng sản-doanh nhân mới – lãnh đạo các địa phương, quan chức chính quyền và quan chức Đảng nhưng ở cấp thấp hơn. COCC là bốn chữ cái đầu của Con Ông Cháu Cha – nghĩa đen là “con của bố, cháu của ông”, nhưng ý nghĩa của câu này rất rõ ràng với bất kỳ ai đã quen với truyền thống của các gia đình Việt Nam – con trẻ trung hiếu với cao niên, bậc cao niên bảo vệ con trẻ. Những người ở dưới cái ô của COCC có thể thoát khỏi gần như mọi rắc rối, vì các bậc bảo trợ cho họ ở cấp cao hơn cả công an và tòa án. Tầng lớp elite thật sự được gọi là 5C: họ có thể thoát khỏi tất cả các rắc rối. Thậm chí người ta còn bảo rằng một cậu con trai 5C đã từng giết người, nhưng mọi chuyện đều được giữ kín. 5C là viết tắt của Con Cháu Các Cụ Cả - nghĩa đen là “tất cả con và cháu của cụ”. Cụ là địa vị cao nhất trong gia đình Việt Nam, và mọi vị Chủ tịch, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản về cuối đời đều được gọi bằng đại từ này. Cái ô của 5C tỏa rộng – vươn cả ra khỏi những con cháu trực hệ để ít nhiều che luôn cho cả đại gia đình.

Ở Việt Nam, những mối quan hệ như thế đều có giá trị quy ra tiền cả. Các công ty – kể cả trong nước lẫn nước ngoài – đều sẵn sàng trả những khoản tiền lớn để được giới thiệu và tiếp xúc với giới hoạch định chính sách. Những người đã có cửa tiếp cận rồi – thông qua quan hệ thân thuộc trong gia đình – có lợi thế cực lớn. Được giới thiệu một cách tích cực đến một quan chức chủ chốt nào đó có thể tốn tới 100.000 USD. Tiền thường không rót trực tiếp vào túi chính trị gia, mà đến tay người hỗ trợ cho chính trị gia ấy – thường là họ hàng. Đôi khi không phải là tiền mà là quà, thậm chí một căn hộ cho không, đấy là lý do tại sao các nhân viên nhà nước với mức lương danh nghĩa 100 USD/tháng lại có thể hưởng thụ mức sống ngang với một giám đốc kinh doanh thành đạt. Người Việt Nam hay nói về chế độ “chân trong chân ngoài”. Một thành viên trong gia đình làm một công việc được trả lương rất thấp ở đâu đó trong hệ thống hành chính, đó là cách hữu hiệu để duy trì quan hệ, trong khi vợ con, anh em, cháu anh ta có thể tìm kiếm công việc làm ăn ở bên ngoài. Biên chế chính thức bây giờ cũng có giá trị. Lãnh đạo các cơ quan ban ngành có thể giã tới vài nghìn đôla cho một vị trí cấp thấp nhưng có nhiều cơ hội và mối quan hệ.

Nhưng giới thiệu, tiến cử chỉ là một cách để kiếm tiền. Thân nhân của các quan chức cấp cao tìm ra chỗ màu mỡ trong khắp thế giới kinh doanh. Kể từ khi cuộc cải cách kinh tế chớm bắt đầu, tầng lớp elite của Đảng đã gửi con cái ra nước ngoài du học và để cho chúng lên cao dần, có lợi thế kinh doanh. Con cái họ trở về nước, có học hơn và sẵn sàng tiếp nhận công việc ở những cơ sở có đầu tư nước ngoài và khu vực tư nhân mới…


* * *

(*) Người dịch viết tắt tên của nhân vật. Độc giả quan tâm có thể tìm hiểu trong chương I cuốn “Vietnam - Rising Dragon” của nhà báo Bill Hayton. Mong được lượng thứ.

Đoan Trang biên dịch

Kỳ trước:


Kỳ sau:


Thursday, 28 April 2011

Đọc truyện đêm khuya: Sự tích VinaShin

Đây là phần tiếp theo trong cuốn sách “Vietnam – Rising Dragon” (Việt Nam – con rồng trỗi dậy) của Bill Hayton, nguyên phóng viên BBC tại Hà Nội. Tiêu đề của phần này do người dịch đặt. Quan điểm của người dịch không nhất thiết trùng quan điểm của tác giả. Người dịch không chịu trách nhiệm về việc kiểm chứng thông tin trong bài viết.

* * *

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một phần rất dễ nhìn thấy trong nền kinh tế. Huy động tới hàng triệu nhân công và đóng góp rất nhiều thuế, nhưng nó lại không chi phối nổi những đỉnh cao chỉ huy (*). Công ty có vốn đầu tư nước ngoài vẫn bị nhà nước kiểm soát, ít nhất là trên lý thuyết. Năm 2005, 122 trong số 200 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Số liệu đã thay đổi chút ít kể từ đó, mặc dù một số ngân hàng tư nhân giờ đây đang sánh kịp bạn bè. Đối với Đảng, khu vực nhà nước mạnh là cách để họ duy trì sự tự chủ của quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa. Nghĩa là Đảng có thể vẫn đặt ra những mục tiêu lớn – như là quyết định phát triển “kinh tế biển” vào tháng 12 năm 2006 - một khái niệm rộng mênh mông bao trùm tất cả mọi thứ từ dầu đến cá và tàu. Đảng cũng quyết tâm duy trì mức độ kiểm soát cao của nhà nước đối với tất cả các lĩnh vực quan trọng chiến lược như tài nguyên thiên nhiên, vận tải, tài chính, cơ sở hạ tầng, quốc phòng và truyền thông.

Đảng đã rút ra bài học từ những lỗi lầm trong quá khứ: cách ly doanh nghiệp quốc doanh khỏi thế giới bên ngoài chẳng mang lại lợi ích gì cho đất nước – để thịnh vượng, họ cần vốn đầu tư mới và những kỹ năng quản lý, kỹ thuật hiện đại. Họ đã sẵn sàng sử dụng tất cả các mẹo mực trong sách vở tư bản để kích thích phần xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế cất cánh. Doanh nghiệp được tự do lập các liên doanh với đối tác nước ngoài và bán cổ phiếu cho nhà đầu tư ngoại quốc, thậm chí là “cổ phần hóa” (từ “tư nhân hóa” vẫn bị nghi hoặc về mặt chính trị) – chỉ miễn là toàn bộ khâu quản lý phải tuân theo lệnh Đảng. Đổi lại, các DNNN nhận được sự hỗ trợ ưu đãi của chính phủ. Một trong những ví dụ rõ ràng nhất, tuy không phải duy nhất, là tập đoàn Công nghiệp Đóng tàu Việt Nam: VinaShin.

VinaShin có mục tiêu đầy tham vọng: đưa Việt Nam thành quốc gia đóng tàu đứng thứ tư thế giới vào năm 2018. Một trong những biện pháp để họ làm điều này là sử dụng hỗ trợ tài chính của nhà nước để đóng tàu rẻ hơn bất kỳ nơi nào khác. Một trong những kẻ hưởng lợi là công ty Anh, Graig. Nằm ở thủ phủ Cardiff của xứ Wales, Graig chuyên đặt mua những tàu vận tải cỡ lớn và sau đấy bán chúng đi, chẳng khác gì mua bán ngựa thồ trong mậu dịch biển quốc tế. Tàu “Diamond 53s” của họ, trọng tải toàn phần 53.000 tấn, đặc biệt thành công. Hầu hết tàu của Graig được đóng ở Trung Quốc, nhưng vào năm 2004, VinaShin trúng một hợp đồng đóng 15 chiếc tàu với tổng giá 322 triệu USD. Hợp đồng không bao giờ có thể được ký nếu không có sự hậu thuẫn của ngân hàng. Cơ sở vật chất và kỹ năng ban đầu của VinaShin kém đến mức Graig cần một sự bảo đảm rằng họ sẽ được nhận lại tiền nếu tàu không nổi trên mặt nước. Nhưng các ngân hàng tư nhân không cung cấp khoản bảo lãnh và lúc đầu thì các ngân hàng quốc doanh cũng từ chối. Chỉ đến khi đích thân Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo khối ngân hàng quốc doanh tiến hành bảo lãnh, một ngày trước khi hợp đồng phải ký theo kế hoạch, thì mọi sự mới được xúc tiến.

Cho đến tháng 4 năm 2006, con tàu đầu tiên đã sẵn sàng hạ thủy ở bãi tàu Hạ Long, thuộc tỉnh Quảng Ninh, cực đông bắc Việt Nam. Đó là một sự kiện trọng đại. Tàu Florence là con tàu lớn nhất từng được đóng ở Việt Nam. Vào ngày hạ thủy, thân tàu màu đỏ - đen, dài 190 mét, cao vượt hẳn lên trên đầu đám đông tới 30 mét. Công nhân đóng tàu im hơi lặng tiếng, còn những người ở cấp cao hơn họ được mời tới dự sự kiện trọng đại thì đều có mặt. Đấy là khoảnh khắc quyết định đối với nền công nghiệp hàng hải Việt Nam. Lệnh ban ra, tàu Florence bắt đầu xuống đường trượt. Mọi người đều vỗ tay kéo dài một lúc. Nhưng vài giờ sau đó, sự rầm rĩ bị thay bằng nỗi xấu hổ. Florence bị một vết nứt – hầm số 4 (trong số 5 hầm) ngập đầy nước. Đây không phải điều VinaShin muốn công bố trong ngày hôm ấy, ngày được coi là đánh dấu sự gia nhập của Việt Nam vào liên minh các nước đóng tàu lớn. Báo chí đưa ra vài lời giải thích: rằng thì là một khối dầm gỗ rơi vào tàu trong quá trình hạ thủy và xé một lỗ đường kính 1 mét trên thân tàu; đường trượt được xây quá ngắn và quá dốc nên thân tàu bị nứt khi tiếp nước. Mặc dù (đã tiếp nhận) những khóa đào tạo và lời tư vấn từ Graig, VinaShin rõ ràng cần học hỏi thêm về ngành đóng tàu.

Tuy nhiên, lỗ thủng được hàn và tàu Florence giờ đây đã an toàn lướt trên đại dương, cùng với vài con tàu Diamond 53s khác do Việt Nam đóng. Kể từ lần hạ thủy kém may mắn đó, Graig đã tăng cường ký kết hợp đồng với VinaShin, thuê đóng thêm 29 tàu Diamond 53s và 10 Diamond 34s nhỏ hơn – tổng trị giá 1 tỷ USD. Nhưng nhà kinh tế trường Harvard David Dapice đã thắc mắc: làm thế nào mà cả Việt Nam có thể hưởng lợi từ hợp đồng, nếu xét đến khoản ngân sách phình to dồn cho VinaShin. Ông ước tính, công ty có thể thua lỗ tới 10 triệu USD cho mỗi con tàu trong mẻ 15 tàu đầu tiên đóng cho Graig, và ông đặt vấn đề liệu đây có phải cách tiêu tiền tốt nhất của một nước nghèo? Nhưng lúc này, các mối quan tâm khác đã xác định chương trình nghị sự. VinaShin là phần thiết yếu trong chiến lược “kinh tế biển” và vì thế, ít nhất là vào thời điểm đó, nó có rất nhiều việc đã chậm trễ cần phải làm để đạt được điều mình muốn – như là chịu lỗ một khoản khổng lồ trong hợp đồng để rút ra kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết cho tương lai. Nhưng đây không phải việc duy nhất VinaShin làm với số tiền đi vay dễ dàng của họ. Giống như nhiều tập đoàn nhà nước lớn khác, VinaShin dịch chuyển sự chú ý từ nhiệm vụ chính yếu của họ sang những lĩnh vực tiềm ẩn các dấu hiệu rắc rối lớn cho Việt Nam.

Một phần khoản tiền đi vay kia dồn vào ngành đóng tàu, nhưng suốt cả năm 2007, VinaShin thành lập 154 công ty con – cứ một ngày rưỡi lại mở một công ty mới, kể cả cuối tuần. Trong số những cơ sở đầu tư mới này có một nhà máy bia và một tổ hợp khách sạn ở tỉnh Nam Định. Đương nhiên không chỉ có VinaShin như thế. PetroVietnam, nhà độc quyền sản xuất dầu mỏ của đất nước, cũng chuyển sang kinh doanh khách sạn, còn các DNNN khác thì xây bất động sản xa xỉ. Trong hai năm 2007, 2008, những khoản đầu tư như thế góp phần thổi lên một bong bóng bất động sản khổng lồ. Nhưng còn nguy hiểm hơn cho đất nước là việc các DNNN bước vào lĩnh vực tài chính. Việt Nam đang đi đúng vào con đường quen thuộc của Đông Á. Các tập đoàn nhà nước lớn nhất lập nên những kênh vốn không minh bạch để tài trợ cho những dự án mà tính khả thi về kinh tế là tối thiểu. Cho tới tháng 6 năm 2008, 28 tập đoàn nhà nước đã chi khoảng 1,5 tỷ USD để xây dựng hoặc mua lại cổ phần kiểm soát ở các công ty quản lý quỹ, công ty môi giới chứng khoán, ngân hàng thương mại và ngân hàng bảo hiểm. Ba phần tư số công ty tài chính Việt Nam hiện do những tập đoàn nhà nước lớn nhất (còn gọi là Tổng Công ty) sở hữu. Các tập đoàn xi măng, than, cao su, mỗi đơn vị đều nắm ít nhất một công ty tài chính. Theo luật Việt Nam, “công ty tài chính” gần như giống hệt ngân hàng, trừ việc nó không thể thanh toán nợ. Nhưng một số Tổng Công ty bây giờ cũng đã có cổ phần ở ngân hàng. VinaShin sở hữu một phần Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank), và còn vài ví dụ khác nữa. Nhiều DNNN đã mua lại, dưới hình thức cổ phần, hợp đồng giao dịch của các công ty chứng khoán.

Tổng hợp tất cả những điều này lại, sẽ thấy một vài tập đoàn nhà nước lớn nhất của Việt Nam có tiềm năng trở thành những “chiếc hộp đen” tự đầu tư. Các thỏa thuận về quỹ này quỹ nọ đều không minh bạch. Cuối năm 2008 chẳng hạn, Điện lực Việt Nam (EVN) sở hữu 40% công ty tài chính EVN (EVN Finance) và 28% ngân hàng ABB, đổi lại ngân hàng sở hữu 8% EVN Finance. Để hoàn tất cái vòng luẩn quẩn này, cả ABB lẫn EVN đều sở hữu những công ty chứng khoán có cổ phần ở EVN Finance. Nói theo ngôn ngữ của một báo cáo gần đây cho Chương trình Phát triển của LHQ ở Việt Nam, “Các Tổng Công ty có thể bảo lãnh, mua lại, bán đi, thao túng và hưởng lợi từ việc cổ phần hóa các công ty thành viên của họ”. Vô số cơ hội nảy sinh cho những hành vi vô đạo đức, vi phạm pháp luật và gây mất ổn định quốc gia. Giám đốc các Tổng Công ty tưởng rằng họ có thể kiếm nhiều hơn bằng việc kinh doanh một cách tài tử ở những lĩnh vực khác thay vì trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Như một quan chức cao cấp ở tập đoàn dầu khí độc quyền PetroVietnam đã nói với báo chí: “Điều quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp là hiệu quả kinh doanh. Hơn 40% thu nhập của tập đoàn chúng tôi đến từ những ngành không phải dầu khí. Chúng tôi biết mình phải tập trung vào những lĩnh vực kinh doanh chủ yếu, song nếu đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là không hiệu quả, thì tại sao chúng tôi lại phải đầu tư?”. Mặc dù đã hưởng lợi từ sự hào phóng của nhà nước, nhưng các vị giám đốc công ty vẫn thường chăm lo tự tưởng thưởng cho mình hơn là lo đến tài sản chiến lược của quốc gia.

Lãnh đạo Đảng Cộng sản thích DNNN, bởi vì DNNN có thể thực thi chính sách của họ. Đảng viên nào quản lý DNNN có thể được lệnh triển khai chính sách của Đảng. Nhưng nhiều vị giám đốc thích làm quản lý ở DNNN bởi vì chỗ ấy cung cấp cho họ vô vàn cơ hội làm giàu cá nhân. Lập một công ty con và tự chỉ định mình vào ban quản trị là cách kiếm tiền cực dễ. Một cách nữa là lập công ty tư nhân cho bạn bè hoặc họ hàng quản lý, rồi bán rẻ tài sản của công ty đó đi, hoặc là ban cho nó những hợp đồng béo bở. Kiếm tiền dễ như thế, không khó để hối lộ kiểm soát viên và quan chức để họ làm ngơ trước những hành vi vi phạm pháp luật. Các đảng viên chịu trách nhiệm quản lý “cái đuôi” DNNN rút cục thường là bỏ quên chính sách “chó” của Đảng. Nhưng đây chưa phải đã hết chuyện. Điều đáng lưu ý đối với trường hợp Việt Nam là cái cách Đảng Cộng sản kỷ luật những đảng viên có sai phạm, vào thời điểm khủng hoảng.

CHÚ THÍCH

(*) Những đỉnh cao chỉ huy (commanding heights) của nền kinh tế là khái niệm do Lenin sử dụng để chỉ những ngành kinh tế có thể kiểm soát được và hỗ trợ được cho các ngành khác. Có thể hiểu chúng như những ngành "mũi nhọn" của nền kinh tế, chẳng hạn dầu khí, thép, điện lực... Gần đây có quan điểm cho rằng giáo dục và y tế cũng có thể được coi là các đỉnh cao chỉ huy mới. (chú thích của người dịch)

* * *

Đoan Trang biên dịch

Kỳ trước:


Kỳ sau: 
"Ô dù" và chủ nghĩa de Gaulle

Sunday, 5 December 2010

Tưởng nhớ Đặng Phong

Đến hôm nay, sau mấy ngày loay hoay bài vở, tôi mới có lúc ngồi trước màn hình máy tính, nhìn ảnh Giáo sư Đặng Phong (ông không phải Giáo sư, nhưng tôi cứ muốn gọi ông vậy), và lau nước mắt. Trông ông vẫn như thế, vẫn là hình ảnh một ông già thản nhiên, phớt đời, vừa hút xì gà vừa trả lời phỏng vấn. Ông nói có những điểm cực đoan, có những chỗ tôi không nhất trí, nhưng điều tôi thấy ngay lập tức, ngay từ lần đầu tiên gặp ông, đó là Đặng Phong là một người rất thông minh, thể hiện trước hết bằng tư duy cực kỳ mạch lạc, rõ ràng. Chỉ cần phóng viên đưa ra một câu hỏi (tất nhiên là không có đáp án sẵn hay dựa trên công thức có sẵn như thi ứng xử của hoa hậu), ông sẽ ngay lập tức trả lời thành một hệ thống: ý 1, ý 2, ý 3, ý 4… Ý 1 gồm các phần, a là…, b là… Ví dụ minh họa… Người ta bảo các đạo diễn tài năng có thể hình dung trong đầu từng cảnh quay của phim từ trước khi bấm máy. Với Đặng Phong, dường như ông đã sắp xếp, hệ thống hóa trong đầu tất cả kiến thức thuộc chủ đề liên quan từ rất lâu trước khi gặp ai hỏi.

Thông thường ai cũng muốn nói hay về một người vừa nằm xuống, nhưng gạt cái thói thường này sang một bên thì quả thật là tôi rất quý ông (dù vẫn có thể phản đối một số ý kiến chuyên môn nào đó của ông). Tôi nhớ một buổi chiều cuối thu, trời âm u, xầm xì, tôi tới nhà ông, vài ngày sau khi vừa ra khỏi chỗ tạm giam – nói thẳng ra là nhà tù, chẳng phải tạm giam tạm giếc gì cả. Ông mang kẹo bánh ra cho tôi ăn. Không nói gì nhiều. Có vẻ như ông hoàn toàn tin rằng tôi vô tội, tin tới mức không cần phải nói câu gì tỏ sự an ủi tôi hay là trách móc “chúng nó” cả. Đừng nghĩ rằng ông sợ. Ông có thể nói những điều kinh thiên động địa và in hẳn ra sách, trong khi chưa ai từng dám làm thế kia mà. Gió heo may lành lạnh. Căn nhà tối dần. Nhà thấp, trông ra vườn, một khoảnh đất ngập cây cối… nên ngồi một lát thì tôi bị muỗi cắn chí chết. Nhưng tôi vẫn cứ muốn ngồi với ông, ngồi nữa, thật lâu. Tôi muốn nói với ông nhiều, và cũng muốn nghe ông nói thật nhiều. Cho đến lúc ông mời ở lại ăn tối một cách hết sức nhiệt tình, thì tôi ngượng vì tự thấy mình đã ở đây lâu quá, chén nhiều bánh quá, nên nhất định xin phép về.

Bây giờ, tôi mới thấy hối tiếc là đã không ở lại hôm ấy.

Bây giờ, cháu mới thấy nhớ bác. Cháu nhớ lời đề tặng của bác trong cuốn sách tặng cho cháu: “Tặng cháu Đoan Trang một cuốn sách không đoan trang”. Và bác thường xuyên chúc cháu “đừng có viết lách đoan trang”, dặn cháu “không bao giờ được sợ”. Cháu nhớ những câu đùa của bác nữa, mà thật ra thì không phải đùa, đó là những nhận xét – gọi là cay độc cũng được - làm bẹp dí cả một hệ thống, hay nói cách khác là đánh tan nát chút uy tín (nếu còn) của cả một tầng lớp: “Lạ. Không hiểu chúng nó làm ăn thế nào mà cứ người nào dốt nhất cái gì thì chúng nó cho vào lãnh đạo trong lĩnh vực ấy. Dốt nhất về kinh tế thì cho quản lý kinh tế. Dốt nhất về ngoại giao thì cho làm bộ trưởng ngoại giao. Ầyyyy… Lạ thế chứ lị”. Bác rít một hơi xì gà. Kèm theo là một cái nhún vai, vẻ mặt hết sức ngán ngẩm, nhưng hài hước.

Cháu không bao giờ quên được bác. Trong những ngày mùa đông buồn thảm của năm 2009, vẫn là bác đã là một trong ba người làm cháu giữ được ý nghĩ: phải sống. Cháu không thể gục ngã vì sự thối nát của “chúng nó”. Cháu không thể. Ngày 9/12, cháu đi dự hội thảo của bác, đó là hội thảo cuối cùng có mặt bác mà cháu còn được tham dự. Rất may là cháu đã kịp mua một bó hoa để tặng bác, và chỉ thế thôi, cháu không có gì khác để thể hiện tình cảm nữa.

Những ngày tháng sau đó, bao nhiêu là sóng gió.

Khi cháu đến thăm bác lần nữa, bác đã yếu lắm. Nhưng bác vẫn lạc quan, vẫn vui vẻ… chính sự lạc quan vui vẻ ấy đã làm cháu tưởng bác sẽ qua khỏi. Cho tới ngày nhận tin nhắn “bác Phong mất đêm qua”. Đến lúc ấy, cháu mới chợt nhớ ra là cháu chưa bao giờ chụp ảnh bác, và không có một bức ảnh nào chụp chung với bác.

Từ hôm ấy đến giờ, cháu đã đi thăm – liên tiếp – mấy người bạn ốm. Họ còn rất trẻ, có thể bệnh cũng sẽ qua? Nhưng cháu đã thấy là không bao giờ nên hoãn việc đi thăm một người ốm lại nữa, vì biết đâu đó có thể là lần cuối cùng ta được gặp họ.

Cháu nhớ bác. Khi cháu nói bác để lại “một khoảng trống không thể lấp đầy” trong lĩnh vực sử kinh tế, thật ra, lúc ấy cháu nghĩ về cháu nhiều hơn. Sẽ có một khoảng trống không thể lấp đầy mà cháu phải đối mặt. Rất nhiều câu hỏi về quá khứ, cháu sẽ không biết tìm đến ai. Một nguồn tư liệu khổng lồ đã mất đi.

Nhưng cháu nhớ bác nhất là vì cháu sẽ không bao giờ có lại cơ hội ngồi trong căn nhà bên vườn ấy, cũng như cháu sẽ không bao giờ quên hình ảnh bác – một ông già lạc quan với cây tẩu hút xì gà và nụ cười hóm hỉnh.

Đêm 24-8-2010

Monday, 23 August 2010

Vĩnh biệt người viết “nhật ký thời bao cấp”

Sáng 20-8, giới kinh tế học ở Việt Nam đón nhận tin buồn: Chuyên gia lịch sử kinh tế Đặng Phong qua đời vì bệnh hiểm nghèo. Cùng nỗi tiếc thương là cảm giác băn khoăn: Có phải con người ấy đã mang đi theo ông bao nhiêu thông tin quý báu, bao nhiêu bí mật về nền kinh tế Việt Nam trong suốt một chiều dài lịch sử? Ai sẽ thay thế ông để làm “con thuyền chuyên chở kiến thức và kinh nghiệm từ quá khứ đến các thế hệ hiện tại”?

TS kinh tế Nguyễn Đức Thành ví ông Đặng Phong như thế - như “một con thuyền lớn và đơn độc chuyển tải kiến thức đến cho những thế hệ mà hiểu biết của họ về quá khứ đang bị xóa mờ đi rất nhanh”.

Sinh năm 1939, có hai bằng đại học kinh tế và lịch sử, trải nghiệm đời sống kinh tế ở Việt Nam suốt từ khi giành độc lập, qua thời bao cấp tới ngày Đổi Mới, Đặng Phong có nhiều điều kiện để làm một sử gia kinh tế chuyên nghiệp. Nhưng đó mới chỉ là điều kiện cần; ngoài ra, ở ông còn có những yếu tố, những phẩm chất rất khó tìm thấy ở người khác, mà điều đầu tiên là tài năng thiên bẩm, thể hiện dưới dạng một niềm say mê kỳ lạ: Ông đã quan tâm tới việc viết lịch sử kinh tế của đất nước từ những năm còn rất trẻ. Ít người biết rằng Đặng Phong đã viết tác phẩm đầu tay năm ông mới hơn… 20 tuổi.


Con người của đam mê

Cuốn sách đầu tay của Đặng Phong viết về kinh tế Việt Nam thời nguyên thủy, đồ sộ, quy mô và chứa đựng nhiều ý rất mới. Khi tìm đọc tác phẩm này, TS Nguyễn Đức Thành cho biết ông bị ấn tượng bởi “một cuốn sách viết hết sức bài bản, kinh điển”. Còn nhà giáo Phạm Toàn – độc giả của Đặng Phong từ hồi ấy - thì khẳng định: “Vào thời điểm ấy, đó là cuốn sách đầu tiên không giáo điều mà tôi được đọc”. Chẳng hạn, sách đưa ra quan điểm cho rằng không nên nhấn mạnh Việt Nam là một nước “rừng vàng biển bạc”, bởi lẽ rừng của chúng ta không nhiều như chúng ta tưởng, nhất là nếu so với nước Mỹ nơi một đàn bò tót đi qua có thể để lại vết bụi kéo dài tới 3 km! Điều gây kinh ngạc là tác giả mới ngoài 20 tuổi, và cuốn sách đã đưa ra những quan điểm như thế trong bối cảnh Việt Nam những năm 60 của thế kỷ trước.

Đặng Phong chính thức bước vào sự nghiệp của một nhà sử kinh tế kể từ đó. Thập niên 60-70, ông công tác tại Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, và là cộng sự đắc lực của GS Trần Phương. Khi ông Trần Phương trở thành Phó Thủ tướng (nhiệm kỳ 1982-1985), Đặng Phong được điều chuyển về làm chuyên viên ở Viện Nghiên cứu Khoa học Giá cả, trực thuộc Ủy ban Vật giá Nhà nước. Tại đây, tiếp xúc với kho tư liệu của Ủy ban, ông càng hăng hái làm việc: sưu tầm, tìm hiểu, đọc, đi và viết. GS-TS Nguyễn Thị Hiền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Giá cả, “sếp” cũ của Đặng Phong, hồi tưởng: “Anh viết chắc tay, viết khỏe, viết nhiều, cái nhìn sắc sảo. Làm việc rất hăng say, phải nói là cực kỳ nhiệt tình, đam mê công việc, xứng đáng là tấm gương cho lớp trẻ noi theo. Suốt cả đời mình, Đặng Phong thích đi, thích mầy mò, chịu khó sưu tầm tư liệu, chính vì thế sách của anh ấy luôn dày thông tin. Tôi thấy đấy là người viết sử kinh tế xuất sắc nhất Việt Nam”.

Không thật sự yêu một công việc, người ta không thể hết lòng vì nó, không thể bỏ công tìm tòi, phát triển nó. Ở Đặng Phong, niềm đam mê đã khiến ông có sự sáng tạo, phong cách độc đáo hiếm thấy ở người khác. Đi dạy, viết sách, ông luôn đưa vào những ý tưởng mới mẻ và sắc sảo. Biên soạn cuốn sách nổi tiếng, “Tư duy kinh tế Việt Nam: Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989”, để đảm bảo tính khách quan và chính xác của thông tin, ông đã gặp và phỏng vấn hàng chục “nhân vật của một thời”, trong đó đặc biệt là những người đã từng làm việc gần gũi các cán bộ lãnh đạo - như các ông Trần Phương (nguyên trợ lý của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn), Trần Việt Phương (nguyên thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng) .v.v. Kết quả của sự dày công đó là một cuốn sách đầy ắp tư liệu, trong đó rất nhiều chi tiết dường như là chuyện “thâm cung bí sử”, về thời kỳ ngột ngạt của đất nước “đêm trước Đổi Mới”. Nhiều thông tin có lẽ phi Đặng Phong không ai có được (những người có được thì lại không viết sách), như câu chuyện về vụ Z30 ở Hà Nội, hay cuộc trao đổi có một không hai giữa GS triết học Trần Đức Thảo và Tổng Bí thư Lê Duẩn về thuyết “làm chủ tập thể”.


Ai người thay thế Đặng Phong?

Thực tế là nếu không vì đam mê công việc, Đặng Phong chẳng có lý do gì để vùi mình vào công việc viết sử kinh tế vất vả và… ít tiền. GS-TS Nguyễn Thị Hiền bày tỏ: “Đóng góp lớn nhất của Đặng Phong là mầy mò tìm hiểu, tập hợp tư liệu và viết sách, một việc mà ngoài ông ấy, ít người chịu bỏ công ra lắm. Ở các trường đại học thì đều có khoa sử kinh tế cả, nhưng tôi nói thực là người ta chẳng có thì giờ mà viết đâu, chạy sô dạy học – chính khóa rồi tại chức – ra tiền hơn nhiều. Đặng Phong viết một cuốn thì giỏi lắm được vài chục triệu đồng chứ mấy, viết để thỏa mãn đam mê của ông ấy chứ ai kiếm tiền từ đấy. Tôi e là cứ cái kiểu đại học như bây giờ thì sẽ không có cơ sở nghiên cứu nào xuất phát từ hệ thống đại học đâu, nên ông Đặng Phong một mình một chiếu sử kinh tế, tung hoành ngang dọc bao lâu nay là đương nhiên”.

TS Nguyễn Đức Thành thì nhận định: “Từ quan điểm của tôi, Đặng Phong hiện giờ là người không thể thay thế. Ông hội tụ được đầy đủ các yếu tố: quan hệ sâu rộng với các nhân chứng lịch sử trong nước, quan hệ rất rộng rãi với học giả quốc tế, là nhân chứng trực tiếp trong suốt những biến động kinh tế của đất nước, và những đam mê, hoài bão to lớn. Nhân chứng lịch sử - những người sống cùng thời ông - thì nhiều lắm nhưng họ không có chủ đích thu thập, tập hợp tư liệu. Trong cộng đồng các nhà nghiên cứu, cũng có những sử gia tài năng người Việt ở nước ngoài, thì họ lại không có mặt trong những thăng trầm của kinh tế Việt Nam; họ là hiện thân của một đời sống khác không ở Việt Nam”.

Với sinh viên và thế hệ các nhà kinh tế trẻ, Đặng Phong luôn được coi như một “túi khôn”, một kho tư liệu sử. Ông còn là người động viên họ bước chân vào lĩnh vực khô khan, khó khăn và… ít tiền này. Lâu nay, cứ đến nhà ông là người ta lại gặp những gương mặt sinh viên trẻ đang hăm hở học tập, nghiên cứu, viết sách cùng với “thầy Phong”. Người muốn viết về lịch sử các quán cà phê ở Hà Nội, người muốn tìm hiểu mô hình kinh tế Trung Quốc trong tương quan so sánh với Việt Nam… TS Nguyễn Đức Thành cũng kể: “Khi gặp đám nghiên cứu trẻ, ông hay nói chuyện về lịch sử kinh tế và kể lại các sự kiện kinh tế để chúng tôi hiểu biết thêm về Việt Nam. Nói chung, Đặng Phong mang lại nguồn cảm hứng lớn, và mỗi lần trao đổi với ông thì chúng tôi đều học hỏi được rất nhiều. Ông là cầu nối giữa thế hệ các kinh tế gia trẻ, không có điều kiện trải nghiệm nhiều, với quá khứ thực tiễn của dân tộc”.

Ngoài đời, Đặng Phong sống vui vẻ, lạc quan, hài hước. Ông thường “phân trần” với mọi người một cách dí dỏm: “Không hiểu sao báo chí cứ nâng tôi lên “giáo sư”, tôi đã bao giờ được Nhà nước phong hàm đâu cơ chứ”. Không tiến sĩ, không giáo sư, nhưng Đặng Phong đã là chuyên gia mời ở nhiều viện nghiên cứu và trường đại học trên thế giới: ĐH Ai-xen-Provence (Pháp), ĐH California (Monterey Bay, Mỹ), ĐH Cambridge (Anh), ĐH Macquarie (Australia)… Phát hiện bị ung thư từ đầu năm 2009, ông vẫn hết sức bình thản, lạc quan chữa trị. Ông còn đùa bảo: “Nếu tôi có chết sớm thì cũng hợp lý thôi, âu cũng là cái giá phải trả cho nửa đời thích uống whisky, hút thuốc lá. Nhưng nếu cả đời không được uống whisky và hút xì gà thì phí lắm”.

Nói chuyện hấp dẫn, ham hiểu biết, thích đi đây đó, Đặng Phong cũng là người quảng giao, dễ gần, rất nhiều bạn bè trong và ngoài nước. Các bạn đánh giá ông “kiêu thì rất kiêu – vì thực sự có tài – nhưng với bạn thì cởi mở, hết lòng”. Họa sĩ Phạm Tuấn Dũng (nguyên Tổng Biên tập báo Giao thông) kể: “Có lần tôi bảo Đặng Phong là tôi đang muốn mời Ban Giám đốc Nhà in báo Nhân dân một bữa nhậu. Phong nói ngay là cứ hẹn đi, rồi vác súng ra ngoại thành đi săn chim. Mãi 6h tối ông ấy mới về, đổ ra sàn nhà… một đống chim, mọi người lại phải lăn vào vặt lông làm thịt, nhưng vui lắm, ăn ngon. Đặng Phong nấu nướng rất giỏi, dân nhậu mà, sành ăn. Có món gì hay lại gọi bạn đến nhà nhậu. Lần đầu tiên tôi được ăn món hoa ban muối giòn là do Đặng Phong làm đấy”.

Đặng Phong ra đi khi ước vọng của ông về việc viết một bộ thông sử kinh tế Việt Nam còn dang dở. Dù hiện tại, chưa gương mặt nào trong giới sử kinh tế có thể thay thế ông, nhưng người ta có thể hy vọng rằng rồi sẽ có người kế cận. Ông để lại rất nhiều tư liệu. Những bạn bè lâu năm của ông đã nhận định: “Với tính cách ấy, với những tư tưởng mới từ thời 20 tuổi ấy, Đặng Phong không bao giờ là người giấu kín kiến thức, không chia sẻ”. Nhưng quan trọng hơn thế là, ông đã gợi lên trong lòng không ít sinh viên cũng như độc giả của mình niềm say mê nghiên cứu, ít nhất cũng là sự quan tâm tới lịch sử nền kinh tế nước nhà.


++++++++++


Ghi chú: Không con người nào là hoàn mỹ. Không tác phẩm nào là hoàn thiện. Không tư tưởng nào là chân lý tuyệt đối. Tuy nhiên, với lòng tôn trọng người đã khuất, xin bạn đọc cho phép tôi, trong khuôn khổ bài viết này, không bàn tới những gì có thể bị coi là nhược điểm hoặc chưa được đánh giá cao trong sự nghiệp viết sử của sử gia kinh tế Đặng Phong.