Showing posts with label báo chí. Show all posts
Showing posts with label báo chí. Show all posts

Tuesday, 19 June 2012

Làm báo thời thổ tả

- Liệu bài có được đăng không? 

- Không biết… nhưng hy vọng là ổn. Anh TBT đã bảo là "có gì sẽ trao đổi với phóng viên trực tiếp trong ngày hôm nay”. Tinh thần chỉ là sửa bớt những chỗ quá cụ thể, còn thì sẽ đăng và phải đăng. 

- Ái chà chà. Thế cơ à? 

- Vì ảnh bảo, có những lúc, nếu chúng ta không nói, sẽ là có tội. Sau này về già, còn mặt mũi nào nhìn con cháu mà chém gió: “Ngày xưa ông làm báo thế đấy!”. 

- Quá chuẩn! Thế mới là TBT chứ! Sao anh tổng nhà tôi không được như thế? 

- Há há, lêu lêu… 

- Sướng nhỉ? Đang nghĩ là nếu bài được đăng, bà con bên Văn Giang sẽ mừng lắm đây. Nhớ mua lấy mấy chục tờ mang về biếu bà con. 

- Ấy, đừng vội mừng sớm... Nói thế chứ vẫn lo lắm. Đã đăng đâu, mới là “sẽ đăng” thôi. Mà đưa một bài lên, bị thổi còi ngay chẳng hạn, là xong… 

* 

Ngày xưa ông làm báo thế đấy!”. 

Mô típ “chúng ta nói gì với con cháu chúng ta” hẳn là đã được sử dụng nhiều trong văn học, sách báo, phim ảnh. Như nhà văn Phan Tứ (1930-1995) viết trong tiểu thuyết nổi tiếng “Mẫn và tôi” về tình yêu thời chiến tranh: “Bầy cháu nội ngoại sẽ nghe tôi kể: “Ông gặp bà giữa hồi núi sụp rầm rầm, nước dâng như chưa hề ghi trong sử sách…”. Chúng cười khì, tưởng tôi mượn chuyện thời vua Hùng. (…) Đành vậy, lớn lên chúng sẽ biết, sẽ nhớ. Tôi phải giúp chúng nhớ. Đừng để những bông hoa mai sau tự rứt mình ra khỏi cây vì không muốn dính dáng với bầy rễ cắm vào bùn”. 

Đánh Chu Lai, chắc Mẫn lại kẹp cácbin đưa các anh đặc công lội trắng đêm trên cát và đời nào em tôi chịu vắng bóng trong đợt pháo hoa cuối cùng. Tôi chia lửa cho Mẫn là phải, riêng tây gì đâu. Phải không em, Mẫn, dù anh đi khắp chân trời góc biển, mỗi lần ra trận chúng mình lại gặp nhau; có phải lúc này em đang quấn quít bên anh, em gần đến nỗi anh chỉ đẩy ngón tay đặt nên tim là nghe ngay tiếng người thương rủ rỉ trong tai, kể rằng quê ta thắng Mỹ rất ngon, và hai đứa mình là bông bạc vẫy hai ngón giữa dòng?”. 

Nghe nhà văn viết những dòng thủ thỉ, thấy tình yêu của hai nhân vật chính – Mẫn và Thiêm – sao mà đẹp đến lý tưởng. Đúng là cuốn tiểu thuyết “một thời khuấy động hàng triệu con tim”, cũng chẳng khác gì “những nhạc phẩm lừng danh của Trịnh Công Sơn”, “đầy phẫn nộ, khát khao cho một niềm hy vọng chung của cả dân tộc”… (*) 

Lũ nhà báo bây giờ sau này kể lại cho con cháu nghe chuyện làm báo của mình thời nay, sợ rằng không được đẹp như thế. Nó thảm hại hơn nhiều, lố bịch hơn nhiều, hèn nhát hơn nhiều… 

* 

Nó là câu chuyện của những nhà báo hễ xuất hiện ở điểm nóng nào là chỉ đi cùng “lực lượng chức năng”, áo nhiều túi, máy ảnh trước ngực, vẻ mặt nghiêm trọng. Cũng là câu chuyện của những phóng viên về Văn Giang lúc xế chiều để chứng kiến một cánh đồng tung tóe, cây cối đổ nát nghiêng ngửa. Dân quê thấy người lạ vào, chẳng ai buồn ngẩng lên, vẫn cắm cúi đào bới, nhặt nhạnh, xúc, đổ đất… Nhưng đến khi thấy “người lạ” lúi húi lấy máy ghi âm, sổ và bút ra, thì họ vây lấy, thẫn thờ: “Sao đến giờ nhà báo mới về? Mất rồi. Mất hết rồi!”. 

Rồi họ nhất định kéo nhà báo vào nhà, để họ pha trà, mời nước, và nghe họ kể lể chuyện “mất hết rồi”. Hàng xóm lục tục kéo đến, người nào cũng phải xán lại, nhìn, chạm tay vào áo khách một cái, khẩn khoản: “Nếu nhà báo giúp được chúng tôi đòi lại được đất, thì chúng tôi mang ơn nhà báo suốt đời”. Màn đêm buông xuống, trai tráng trong làng rầm rập đưa xe máy hộ tống nhà báo về. Người dân nông thôn bao giờ cũng là vậy, họ có thể khôn ngoan hay thực dụng, nhưng vẫn có cái hồn hậu chất phác – nên không để ý thấy nhà báo đang cúi gằm mặt, lủi thủi rời khỏi hiện trường. 

Và từ ấy, ngày nào họ cũng ngong ngóng ra bưu điện huyện, chờ xem có báo nào đưa tin, viết bài “về xã mình” không. Những mảnh báo hiếm hoi nhắc đến vụ việc của làng họ được photocopy ra hàng chục bản, và truyền tay nhau nhiều quá, đã nát ra rồi… 

 * 

Họ không nhìn thấy cảnh nhà báo phóng xe máy rời làng, đầu cúi gằm. Họ cũng không biết đến chuyện, có những lần, nhà báo về làng khi trời vẫn còn chưa tối. Trên đường đi, dưới ánh hoàng hôn, cây lá trong vùng vẫn xanh biếc như thế, triền đê vẫn mườn mượt cỏ, gió vẫn lồng lộng, và nhà báo dở hơi bỗng nghĩ tới lời thề của danh tướng Trần Quốc Tuấn thời xưa: “Trận này không phá xong giặc Nguyên, quyết không về bến sông này nữa”. Thì chúng cháu cũng vậy, Hưng Đạo Đại Vương ơi! Chúng cháu cũng muốn đứng trên đê, nhìn xuống cánh đồng xanh mượt mà thề: “Chuyến này không đăng được bài, quyết không về chốn này nữa”. Nhưng nói vậy thôi, chúng cháu sao dám gở miệng như thế - vì chúng cháu hiểu, sẽ còn nhiều, rất nhiều những vụ cưỡng chế đất đai, những bạo lực, đổ máu, hận thù, bất mãn… mà nếu còn nghĩ tới chuyện làm báo thì còn phải chứng kiến, và viết. Không ở đây thì cũng ở nơi khác mà thôi. 

Những người dân quê chất phác. Họ chẳng biết gì tới sự căng thẳng của ban biên tập, nỗi dằn vặt của phóng viên. Họ cũng chẳng biết đến Internet, cùng những cuộc cãi vã xô xát trên đó, bảo rằng họ tham lam, đã nhận tiền rồi nay thấy ít nên lại đòi tăng, rằng họ bất mãn nên bị bọn phản động lợi dụng, rằng cưỡng chế đất đai là việc không thể tránh khỏi trên con đường phát triển của Việt Nam (chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tóm lại là “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”). 

Họ càng không biết tới Hiến pháp, tới bài toán phát triển kinh tế của đất nước – toàn những thứ vĩ mô đến thế. Họ chỉ biết vào cái buổi sáng hôm ấy, hàng chục xe cam nhông, xe tải chở lính, đã “bò như cua” vào thôn làng họ, và họ bị xô đẩy, dồn ra ngoài cái mảnh đất cho đến rạng sáng vẫn còn là của họ trong tiếng loa oang oang nhắc nhở: “Không phận sự miễn vào”. Không chống lại được thì họ cự lại, phản ứng, họ chửi, khóc, ngồi bệt, rồi lăn cả ra đấy, uất ức như những đứa trẻ bị cướp đồ ăn. 

Lúc ấy, ai còn dám lý luận với họ về những vấn đề cao siêu, ví dụ, về sự cần thiết phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất? 

Nhưng nếu đặt câu hỏi ngược lại, rằng giả sử cuộc cưỡng chế diễn ra căng thẳng và khốc liệt, rồi một nhân viên công vụ bị đánh trọng thương, máu me be bét, lực lượng cưỡng chế buộc phải rút lui trong thất bại, thì có ai vui mừng hả hê với chiến thắng của “phe nhân dân” không? Câu trả lời, với những người làm báo nghiêm túc, sẽ là không. Đơn giản bởi vì người ta ai cũng xương cũng thịt. Ai cũng là tinh cha huyết mẹ mà thành. 

Báo chí không thể ủng hộ, cổ vũ bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào. Một điều mà các nhân viên an ninh “ít chữ” rất hay muốn làm rõ là “Anh/chị viết bài vì động cơ gì?”. Họ không hiểu rằng với nhà báo, sự thật là tối thượng, và nếu có thể gọi đấy là “động cơ”, thì nhà báo chỉ có động cơ duy nhất là phản ánh sự thật. Đôi khi, một nhà báo viết hết, phản ánh hết – đúng 100% - những gì một bên đưa ra (ý kiến, bằng chứng…), mà vẫn là không chấp nhận được. Bởi vì như vậy là không đủ khách quan, công bằng: Mọi bên đều phải có cơ hội thể hiện quan điểm như nhau. 

Nếu dân sai thì ngay cả có bị dí súng vào đầu bắt viết “vu vạ” cho công an, người làm báo cũng không viết. (Ở đây, phải giới hạn là không phải tất cả các nhà báo đều như nhau, ngoài ra, nhiều khi họ không viết xấu về chính quyền không phải vì tôn trọng sự thật khách quan, mà là vì không đủ bằng chứng, hoặc vì sợ bị trừng trị). Ngược lại, nếu chính quyền sai thì dù có cố đến đâu cũng khó lòng bênh nổi. 

Ai đó đã nói về “chiến dịch” đưa tin của báo chí trong và sau các vụ Tiên Lãng, Văn Giang như sau: “Một cuộc vật lộn để được nói sự thật”. Thực tế còn hơn thế nữa: Một cuộc vật lộn để được biết sự thật, để được viết sự thật, và để được khách quan (tất nhiên cũng chỉ dám mong ở mức độ tương đối). Thế mà, cho đến giờ, cái đích ấy vẫn chưa đạt được. 


37 năm sau ngày thống nhất đất nước. Hơn nửa thế kỷ sau cải cách ruộng đất. 67 năm sau ngày thành lập nước. Sáu thế kỷ sau thời kỳ tích lũy tư bản nguyên thủy ở phương Tây. Bước vào thời đại toàn cầu hóa, hội nhập, ở Việt Nam, vẫn còn diễn ra những cuộc cưỡng chế đất đai nhốn nháo, tiếng la hét chửi bới của dân lẫn trong khói hơi cay và tiếng oàng oàng chói tai của “quả nổ nghiệp vụ”. 

Tệ hơn nữa là chuyện ấy lại diễn ra cùng với đây đó những mệnh lệnh (miệng) yêu cầu báo chí “hạn chế đưa tin”, và những cuộc tranh cãi ầm ĩ, đầy ngụy biện, trên mạng, về quan tham, dân gian và bọn báo chí lề phải, blogger lề trái ngu dốt, phản động. 

“Ngày xưa ông làm báo thế đấy”. 

Ghi chú: 

(*) Lời giới thiệu album “Sơn Ca 7” của Khánh Ly. 

http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3429


Monday, 23 April 2012

Quản lý Internet: Nói tục, “chém gió” cũng bị xử lý

“Trước hết tôi phải nói rằng đang có sự hiểu không đầy đủ về yêu cầu cung cấp thông tin thật trên mạng. Dự thảo chỉ đưa ra yêu cầu là cung cấp thông tin cá nhân đối với một số dịch vụ, mà cụ thể là dịch vụ cung cấp thông tin công cộng lên mạng và dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng. Chứ không phải là tất cả dịch vụ mạng” - ông Lưu Vũ Hải, Cục trưởng Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử (Bộ Thông tin Truyền thông), nói về sự cần thiết phải có nghị định "quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và nội dung thông tin trên mạng". 

***

Điều chỉnh “dịch vụ cung cấp thông tin công cộng”

. Thưa ông, dịch vụ nào là cung cấp thông tin công cộng? Lập trang tin điện tử, lập blog cũng đều là cung cấp thông tin công cộng? 

+ Ông Lưu Vũ Hải: Khái niệm thông tin công cộng là một khái niệm rộng. Nghị định điều chỉnh chung việc đưa thông tin lên mà anh công khai cho mọi người, anh đưa lên theo cái cách anh không cần biết ai là người dùng. Tạm hiểu là như vậy.

. Xuất phát từ lý do nào mà chúng ta lại đưa ra dự thảo này? 

+ Từ yêu cầu thực tiễn của chính sự phát triển của mạng Internet, của cộng đồng Internet và mong muốn đối với các cơ quan quản lý, làm sao tạo ra một môi trường Internet thật sự lành mạnh. Internet có ích trong việc cung cấp thông tin nhưng ngược lại cũng là môi trường rất dễ bị lạm dụng, lợi dụng để cung cấp thông tin theo những hướng xấu. Nhẹ thì gọi là thông tin thất thiệt. Nặng hơn thì là xúc phạm danh dự cá nhân, tổ chức. Nặng hơn nữa thì là thông tin lừa đảo, thậm chí là chống phá Nhà nước. Tất cả những cái đó đòi hỏi phải có một cái gì đó để đảm bảo anh sẽ phải chịu trách nhiệm về thông tin anh đưa lên.

. Trong thực tiễn sử dụng mạng ở Việt Nam, tôi giả sử có 100 người dùng mạng thì tỉ lệ người lạm dụng Internet, theo đánh giá của Cục hoặc theo một điều tra nào đấy, khoảng bao nhiêu? 

+ Thật ra thì cũng chưa có điều tra, khảo sát xã hội học nào về chuyện đó nhưng mình phải thấy thế này: Mặc dù tỉ lệ vi phạm có thể là thấp nhưng hậu quả sẽ càng ngày càng lớn, càng ngày càng nghiêm trọng. Người ta nói là xây thì khó mà phá thì dễ là vậy.

Nói tục sẽ bị xử lý 

. Tôi thấy băn khoăn: Trong bối cảnh khó khăn về kinh tế thì tâm trạng của người dân có nhiều bức xúc. Nhiều phát ngôn trên mạng có thể thuần túy là xuất phát từ sự bất mãn, họ nói năng, văng tục… Không hiểu những trường hợp đó có bị xử lý không? 

+ Chắc chắn sẽ bị xử lý. Đến mức độ văng tục thì đương nhiên là phải xử lý rồi. Vi phạm thuần phong mỹ tục của Việt Nam, đấy là một trong những điều cấm.

. Nhưng trên thực tế thì người ta cũng văng tục ngoài đời rất nhiều. Đến xả stress, “chém gió” trên mạng mà cũng bị xử lý?

+ Cơ quan quản lý không phải lúc nào cũng đủ người, không phải lúc nào cũng có thể theo dõi thường xuyên được. Nhưng ta phải định hướng. Chính sách xét đến tận cùng là mang tính giáo dục. Có thể có những trường hợp sai phạm chưa bị phát hiện, chưa bị xử lý. Nhưng không có nghĩa là pháp luật dung túng chuyện đó và người dùng dần dần hiểu được điều đó thì người ta có thể tự điều chỉnh.

. Quy định vậy có đảm bảo bí mật đời tư cho công dân? 

 + Nói đăng ký thông tin cá nhân không có nghĩa là đăng ký tên tuổi, địa chỉ, số chứng minh nhân dân... Đăng ký như thế nào thì sẽ có hướng dẫn sau. Nhưng việc đăng ký làm sao phải bảo đảm là đơn vị cung cấp dịch vụ cũng không biết thông tin thật của anh mà chỉ biết dưới dạng một mã số, một nickname nào đấy thôi. Chỉ có cơ quan chức năng, cơ quan quản lý Nhà nước mới biết được thông tin cá nhân đó, để khi cần có thể tham chiếu.

. Cơ quan chức năng đó là cơ quan nào, thưa ông? 

+ Trong dự thảo đưa ra thì đó là Bộ Công an.

. Giả sử có một blogger nào đó lên mạng chỉ trích chính sách thu phí của Bộ Giao thông vận tải thì có bị xử lý không, theo nghị định này? 

+ Cái đó phải căn cứ vào nội dung cụ thể. Anh có quyền phân tích, đóng góp ý kiến nhưng phải trên tinh thần xây dựng. Anh không được phỉ báng, bôi nhọ, xúc phạm người ta.

. Giả sử họ nói vị quan chức nọ không có năng lực… 

+ Bạn không thể ví dụ bằng việc cắt cả câu ra khỏi bối cảnh. Nếu nói câu đó trong một bối cảnh phù hợp thì có thể chấp nhận được. Nhưng cứ rêu rao câu đó, lặp đi lặp lại 100 lần thì lại thành bêu riếu người ta. Vấn đề là câu nói được thể hiện trong môi trường nào.

. Như thế thì việc phân tích xem một câu nói nào đó có phạm luật không sẽ hơi phức tạp phải không, thưa ông? 

+ Đương nhiên. Từ trước đến nay bao giờ cũng thế, ngay cả ra tòa người ta còn phải xử, phải phân tích cơ mà. Ngôn ngữ đâu phải là cái máy để có thể nói một là một, hai là hai. Vấn đề là tính định lượng của nó không phải lúc nào cũng rõ ràng. Nhưng chuẩn mực về văn hóa, đạo đức xã hội thì lúc nào cũng có. Làm sao phải đảm bảo được chuyện đó.

“Đấy là quan hệ dân sự” 

. Theo quy định của pháp luật thì trong các vấn đề như danh dự, nhân phẩm, uy tín, lợi ích của chủ thể nào thì chủ thể đó tự tìm cách bảo vệ. Ví dụ, một cá nhân bị một cá nhân khác xúc phạm thì bản thân họ phải tự tìm cách bảo vệ mình và khi ra tòa, nghĩa vụ chứng minh ai xúc phạm, xúc phạm như thế nào… thuộc về họ. Cũng chỉ bản thân họ mới biết được là thông tin đó có gây thiệt hại cho mình hay không. Thế thì nếu tôi lập nickname, tôi nói xấu một người khác, Nhà nước có can thiệp vào việc ấy không? 

+ Nhà nước can thiệp khi có khiếu nại về thiệt hại. Đây là quan hệ dân sự. (PV nhấn mạnh). Khi có một bên khiếu nại với cơ quan chức năng rằng cái này gây hại cho tôi thì Nhà nước phải can thiệp xem anh khiếu nại có đúng không? Đúng thì xử lý, mà sai thì cũng có quy định. Nhà nước vẫn xử nhưng chỉ xử trên cơ sở có kiến nghị, xem cái này có gây ảnh hưởng, gây hại cho ai không. Nếu không ai kiến nghị, không ai kêu thì làm sao mà biết nhưng có kiến nghị thì phải xem xét.

. Giả sử người dùng nọ đăng tải thông tin công cộng lên Facebook, chúng ta lại yêu cầu Facebook phải cung cấp thông tin của người đó, e là hơi khó khả thi. 

+ Luật pháp của chúng ta điều chỉnh những hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, chứ ta làm sao điều chỉnh được hoạt động của doanh nghiệp bên Mỹ.

. Nhưng là dịch vụ cung cấp qua biên giới, Facebook vẫn cung cấp dịch vụ ở Việt Nam mà không cần phải có mặt ở Việt Nam kia mà? 

+ Nếu họ cung cấp dịch vụ ở Việt Nam, họ đăng ký theo luật Việt Nam thì họ phải tuân thủ nghị định này. Không đăng ký thì là chuyện khác.

. Vậy có khả năng rất lớn là người dùng Internet Việt Nam bỏ các nhà cung cấp trong nước mà đi tìm nhà cung cấp nước ngoài. Điều này có thiệt thòi cho chúng ta không? 

+ Cũng có thể là thiệt. Nhưng cũng chưa chắc đã là thiệt vì cái xu thế này dần dần sẽ không phải chỉ có ta áp dụng. Chắc chắn như thế.

“Đấy là sự phát triển của xã hội” 

. Ở Mỹ và châu Âu có khái niệm “quyền phát ngôn nặc danh”. Đã có trường hợp một nickname nói xấu một doanh nghiệp và gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp yêu cầu tòa án điều tra nickname đó nhưng bị tòa án phủ quyết. Ông bình luận thế nào về phán quyết này? 

+ Đây là sự phát triển của xã hội. Có thể ở thời điểm ban đầu người ta chưa thấy vi phạm là thường xuyên và gây hậu quả nghiêm trọng, nên chưa đặt vấn đề là phải xử lý nó. Nhưng nếu những vi phạm đó thường xuyên xảy ra hơn và hậu quả càng ngày càng lớn hơn thì phải điều chỉnh luật pháp để xử lý những vấn đề đó.


* * *


Vô cùng thương tiếc báo tin, cụ già 60 tuổi đêm qua chúng tôi đâm xe máy vào đã củ tỏi hồi 17 giờ 07. Anh em phang lô đề nhiệt tình đi…”. Những bình luận của Facebooker có nick “Kẹo mút chơi bời”, từng gây phẫn nộ trong cộng đồng mạng tháng 11-2011, có thể đã là một trong những trường hợp “lạm dụng Internet” khiến nhà quản lý phải đặt ra vấn đề xiết chặt hơn không gian mạng Việt Nam.

Những lời lẽ trên mạng của anh ta đã đưa đến hàng nghìn phản hồi phẫn nộ của cộng đồng mạng, hàng trăm người “vào cuộc” truy tìm tung tích kẻ lộng ngôn. Kết cục là anh ta đã phải tự ra trình diện tại cơ quan công an.

Về điểm này, TS Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách - từng nghiên cứu nhiều về tâm lý đám đông, cho rằng: “Dân chúng Việt Nam nhìn chung cũng rất thuần hậu, chất phác, nếu có lúc nào đấy đám đông manh động thì là cục bộ thôi. Chứ ai cũng vô cảm, độc ác, không lương tri cả thì chắc chắn xã hội sụp đổ”.

Câu chuyện của “Kẹo mút chơi bời”, ngoài việc phản ánh sự manh động của một bộ phận thanh niên, cũng cho thấy rằng bên cạnh công cụ luật pháp, các hạn chế đối với tự do ngôn luận còn có thể được thực thi nhờ sự lên án của xã hội.

Quyền được nặc danh

Tháng 2-2007, Tòa án bang New York nhận được lá đơn từ một phụ nữ có tên Pamela Greenbaum với nội dung như sau:

Tôi là công dân bang New York, hạt Nassau, cư ngụ tại địa chỉ… Tôi gửi đơn này yêu cầu quý vị tiến hành điều tra để tôi xác định được tác giả của một blog nặc danh, gọi là Orthomom, cùng những người bình luận nặc danh trên đó. Họ đã xúc phạm tôi khi gọi tôi là “đồ mù quáng”, “bài Semite” và tung tin sai lệch về con người tôi”.

Tôi yêu cầu tòa ra lệnh cho bên bị cáo tiết lộ các thông tin như luật sư của tôi yêu cầu trong văn bản đính kèm đây, để đơn kiện có thể được tống đạt đến đúng các bên có trách nhiệm. Bên cạnh đó, tòa cũng phải có lệnh bảo lưu thông tin trên blog đó, bởi vì blogging là hành động tự nguyện và có thể bị chấm dứt hoặc hủy bỏ nội dung bất kỳ lúc nào bởi kẻ nặc danh có nick “Orthomom”.

Orthomom và các độc giả của cô ta, trong những comment của mình, đã tung tin sai lạc, vu khống và bôi nhọ tôi, gọi tôi là “đồ mù quáng”, “bài Semite” chỉ vì tôi có quan điểm phản đối việc sử dụng quỹ của trường công để phục vụ các lợi ích của trường tư và những lợi ích khác vượt ra ngoài những gì luật pháp cho phép…”.

Trong đơn kiến nghị gửi tòa án bang, bà Pamela Greenbaum tìm cách buộc Google phải tiết lộ thông tin về nhân thân blogger Orthomom - người sử dụng dịch vụ blogger.com (tức là blogspot) của Google. Về phần Orthomom, sau khi biết có đơn đề nghị điều tra mình, cô này tiếp tục viết bài trên blog để phản đối bà Greenbaum, viện dẫn Tu chính án Thứ Nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ để bảo vệ “quyền phát ngôn nặc danh” của mình. Tháng 10-2007, tòa bác bỏ đề nghị của Pamela Greenbaum và hủy đơn kiện, chủ yếu là do bà Greenbaum không thuyết phục được tòa rằng những ngôn từ Orthomom đã dùng là có tính bôi nhọ, xúc phạm bà. “Những ý kiến mà Greenbaum dựa vào để nói rằng mình bị bôi nhọ đơn thuần là không đủ giá trị pháp lý”.

Sao lại bảo vệ sự nặc danh?

Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới như Jo Glanville, Andrew Puddephatt, Hodder Arnold… đều cho rằng tự do ngôn luận là một hình thức của tự do biểu đạt và được áp dụng cho bất kỳ cách thức truyền thông nào, kể cả Internet. Tại Mỹ - cái nôi ra đời Internet - mãi tới tháng 2-1996, Quốc hội mới ra được Đạo luật Về khuôn phép trong thông tin (Communications Decency Act, CDA) mà mục đích chính là để ngăn chặn những nội dung khiêu dâm trên Internet. Nhưng chẳng bao lâu sau, ngày 12-6 năm đó, trong một phán quyết dài 219 trang, Tòa án Tối cao bang Pennsylvania đã tuyên bố một số phần chính yếu của CDA là vi hiến và phải chấm dứt thực thi. Thẩm phán Stewart R. Dalzell nói: “Internet là phương tiện truyền thông thúc đẩy ngôn luận mạnh mẽ hơn sách báo… Vì CDA nhất định sẽ ảnh hưởng tới Internet, cho nên nhất định nó sẽ làm giảm mức độ tự do ngôn luận của người trưởng thành”.

Phát ngôn nặc danh hoặc sử dụng tên giả cũng là một phần trong các quyền được quy định trong Tu chính án Thứ Nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ về tự do ngôn luận. Lý do là vì “định danh, cộng với nỗi sợ bị trả thù, có thể ngăn chặn việc người ta thảo luận một cách hoàn toàn ôn hòa về các vấn đề công cộng quan trọng”.

Ở khía cạnh ngược lại, những người bị thiệt hại vì các phát ngôn nặc danh phạm pháp trong môi trường Internet cũng có quyền được kiện tụng, đòi bồi thường - chẳng hạn khi họ bị bôi nhọ, bị đánh cắp thông tin cá nhân, bí mật thương mại... Tuy nhiên, những hành vi này đều đã có những đạo luật tương ứng điều chỉnh trong cuộc sống, theo kiểu “đời sao, mạng vậy”. Ngoài ra, phần đông các tòa án ở Mỹ cũng đòi hỏi nguyên đơn phải chứng minh được rằng quả thật kẻ nặc danh nào đó đã làm tổn thương đến họ. 

Trịnh Hữu Long - Phạm Đoan Trang - Đỗ Hoàng Thư thực hiện




Thursday, 29 March 2012

Ngụy biện vì ông Đinh La Thăng

Dành thời gian đọc, sau đó phân tích các lỗi ngụy biện ở một bài viết như bài “Kính thưa ‘quý cô cái gì cũng muốn’” của tác giả Hoàng Thắng trên Petro Times (http://www.baomoi.com/Home/AmNhac/www.petrotimes.vn/Kinh-thua-quy-co-cai-gi-cung-muon/8162668.epi) là một việc có lẽ chỉ nên làm trong lúc rảnh quá. Tuy nhiên, xét thấy sự ngụy biện đang lan tràn trong tất cả các cuộc tranh luận trên mạng, trên không gian báo chí, không loại trừ cả không gian học thuật, nên tôi nghĩ việc chỉ ra các lỗi ngụy biện sơ đẳng trong bài viết này cũng là điều cần thiết. Bên cạnh các lỗi ngụy biện là một số sai sót về kỹ thuật viết báo, tôi cũng sẽ cố gắng chỉ ra một phần.

Xin lưu ý: Đây là bài viết phân tích về ngụy biện và báo chí, không nhận xét và không phán xét tác giả Hoàng Thắng.


* * *

1.


Trích: “Trong bài trả lời phỏng vấn của mình, ca sỹ Mỹ Linh cho rằng: Thuế chồng lên thuế, phí chồng lên phí, chất lượng công trình giao thông chưa tương xứng với những khoản tiền mà dân phải đóng… và cuối cùng là kết luận một câu xanh rờn “Đề xuất giải pháp đó, theo tôi, chứng tỏ anh Đinh La Thăng quá kém cỏi!”

Chỉ chờ có thế, các trang mạng đua nhau đăng lại bài phỏng vấn ca sỹ này với tiêu đề “Bắt dân đóng phí, anh Đinh La Thăng quá kém cỏi!” Đã không ít người tung hô cho bài phỏng vấn này của Mỹ Linh, đơn giản vì đó là lời nói của một người nổi tiếng. Tuy nhiên, để nói về hàm lượng kiến thức hay tư duy trong câu nói thì cũng chưa được nhiều cho lắm”.


Về khía cạnh nghiệp vụ báo chí, để đảm bảo tính khách quan, nhà báo không được sử dụng tính từ, phó từ, nhất là các tính từ và phó từ mang tính phán xét, nặng hơn nữa là có hàm ý miệt thị. Các động từ, nếu không đảm bảo trung tính, cũng không được dùng. Trong đoạn viết trên đây, tác giả Hoàng Thắng, ngược lại, đã sử dụng ít nhất ba từ không khách quan: “xanh rờn”, “đua nhau”, “tung hô”.

Suy luận “đơn giản vì đó là lời nói của một người nổi tiếng” là quá đơn giản. Người ta “tung hô” (nếu có) ý kiến của ca sĩ Mỹ Linh có thể còn vì nhiều nguyên nhân khác, như: cô ấy đẹp, cô ấy là dân thường (giống người ta) chứ không phải lãnh đạo, cô ấy là phụ nữ, cô ấy đã nói đúng điều người ta thích, v.v.


2.


Trích: “Mặc dù phát biểu văng mạng rằng “thuế chồng thuế, phí chồng phí” nhưng xin cam đoan là nữ ca sỹ sẽ chẳng thể nào chỉ ra nổi “phí chồng phí” ở đâu. Bởi đơn giản: Việc phân định có hay không chuyện “phí chồng phí” đang được các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia kinh tế tranh luận quyết liệt và chưa có hồi kết. Những phát ngôn của “người đẹp hát” cũng chỉ có thể là… nghe người ta nói thế thì biết thế thôi.

Còn kết luận phê phán kiến thức của Bộ trưởng Bộ GTVT “Bắt dân đóng phí chứng tỏ anh Đinh La Thăng kém cỏi” thì có lẽ là nên miễn bàn vì đơn giản: Tiến sỹ Đinh La Thăng cũng sẽ không bao giờ tranh cãi với ca sỹ Mỹ Linh về âm nhạc”.


Tác giả sử dụng các từ và lối diễn đạt sau đây: “văng mạng”, “phát ngôn của ‘người đẹp hát’”, “nghe người ta nói thế thì biết thế thôi”, “miễn bàn”… Về khía cạnh báo chí, lỗi lặp lại như ở trên: chủ quan, cảm tính, hàm ý miệt thị cá nhân. Có dấu hiệu của ngụy biện “tấn công cá nhân” với cách gọi Mỹ Linh là “người đẹp hát” trong ngoặc kép.

Với cách diễn đạt “miễn bàn về…”, tác giả phạm lỗi ngụy biện “Appeal to Ridicule”, tạm dịch là “Lố bịch hóa”, nghĩa là (chưa gì đã) chế nhạo ý kiến của người nói thay vì chỉ ra lỗi của người đó. Ví dụ (trích tài liệu của TS. Michael C. Labossiere, dự án Nizkor, 1995):

- Chắc chắn là đối thủ xứng đáng của tôi tuyên bố là chúng ta nên giảm bớt học phí rồi, nhưng điều này thật nực cười.

- Ủng hộ ERA à? Tất nhiên rồi, khi nào phụ nữ trả tiền đồ uống đã! Haha!


3.


Trích: “Cô ca sỹ còn đưa ra bằng chứng khá ngô nghê là “Ai bảo bắt cái ô tô oằn mình chịu đủ thứ thuế, thứ phí… là sẽ giúp giảm thiểu được tai nạn giao thông, khi mà đi xe máy ở Việt Nam mới là dễ bị tai nạn nhất! Chỉ mới cách đây hơn hai tuần thôi, vào đúng ngày 8/3, chị bạn tôi vừa mất một câu con trai 10 tuổi cũng vì hai bố con chở nhau đi xe máy, bị người ta quệt phải. Còn trước đó đi ôtô thì không sao, nhưng ô tô đã phải bán vì bố mẹ cháu không chịu nổi cơn tăng giá, phí.”

Lấy ví dụ thế thì chả hóa ra chỉ có đi ôtô như Mỹ Linh mới an toàn còn những người đi xe máy đều nguy hiểm cả. Chẳng lẽ an toàn giao thông chỉ là thứ người giàu người riêng hưởng?”.


Tương tự trên, tác giả dùng từ “ngô nghê” là vi phạm nguyên tắc báo chí, vì vừa chủ quan, vừa cảm tính, vừa miệt thị cá nhân.

Ở đây, nếu muốn phản bác Mỹ Linh, tác giả hoàn toàn có thể chỉ ra lỗi ngụy biện trong ý kiến của ca sĩ Mỹ Linh. Tuy nhiên, thay vì thế, tác giả đã đánh phủ đầu bằng miệt thị, chế nhạo, và vẫn không có cơ sở khoa học nào. Ý kiến của tác giả, do không được chứng minh, cho nên cũng không có lý hơn Mỹ Linh là bao nhiêu.

Lấy ví dụ thế thì chả hóa ra chỉ có đi ôtô như Mỹ Linh mới an toàn còn những người đi xe máy đều nguy hiểm cả”. Thật ra thì, căn cứ vào lời được trích dẫn trên báo, thì ca sĩ Mỹ Linh không nói rằng CHỈ có đi ô-tô thì mới an toàn. Tác giả phạm hoặc là lỗi quy chụp, hoặc là lỗi trích dẫn. Một khi đã phạm lỗi quy chụp hoặc lỗi trích dẫn rồi thì các lập luận tiếp sau đó của người phạm lỗi không còn ý nghĩa nữa.

Tuy nhiên, ở đây cứ giả sử rằng chúng ta chấp nhận lỗi này của tác giả, giả sử rằng Mỹ Linh có ý cho rằng đi ô-tô an toàn hơn đi xe máy, thì Mỹ Linh vẫn đúng thay vì tác giả. Theo thống kê, tính trên 1 mile (dặm, tương đương 1,6 km), đi xe máy có nguy cơ gặp tai nạn cao hơn từ 30 đến 40 lần so với đi ô-tô. Còn khi tai nạn xảy ra, người đi xe máy có xác suất bị thương cao gấp 3 lần người đi ô-tô, và xác suất tử vong cao gấp 15 lần. Đây là các thống kê của US National Traffic Safety Board.

Chả hóa ra chỉ có đi ô-tô như Mỹ Linh mới an toàn”. Đưa cụm từ “như Mỹ Linh” vào, tác giả đã phạm lỗi ngụy biện “Appeal to Spite”, tạm dịch là “gây thù chuốc oán”. Đây là ngụy biện theo đó, thay vì đưa bằng chứng cho thấy một người nào đó (Mỹ Linh) nói như vậy là sai, thì lại tìm cách làm cho người đó bị số đông ghét bỏ.

Tương tự, “Chẳng lẽ an toàn giao thông chỉ là thứ người giàu người riêng hưởng?”, cũng là lỗi ngụy biện “gây thù chuốc oán”.


4.


Trích: “Hàm lượng “chất xám” trong phát biểu của ca sỹ Mỹ Linh có lẽ cũng chỉ nên bàn đến thế. Cái cần bàn của chúng ta ở đây là thái độ xây dựng, cách phát ngôn của những “con người công chúng” với công việc chung, với lợi ích chung của cả xã hội.

Trong khi cả hệ thống chính trị, cả xã hội đang sôi sục để cùng chung lưng đấu cật tìm ra biện pháp tháo gỡ vướng mắc, giải bài toán ách tắc giao thông thì “người của công chúng” lại đăng đàn và phát ngôn một cách vô trách nhiệm như thế”.


Hàm lượng “chất xám” trong phát biểu của ca sỹ Mỹ Linh có lẽ cũng chỉ nên bàn đến thế”: chủ quan, cảm tính, miệt thị, xúc phạm cá nhân.

Trong khi cả hệ thống chính trị, cả xã hội đang sôi sục để cùng chung lưng đấu cật tìm ra biện pháp tháo gỡ vướng mắc, giải bài toán ách tắc giao thông thì “người của công chúng” lại đăng đàn và phát ngôn một cách vô trách nhiệm như thế”. Tác giả phạm các lỗi ngụy biện sau đây:

- gây thù chuốc oán (Appeal to Ridicule), đã phân tích ở trên

- có dấu hiệu của ngụy biện “viện đến tình cảm của số đông” (Appeal to Emotion): “trong khi cả hệ thống chính trị, cả xã hội đang sôi sục…”. Sở dĩ mới là “có dấu hiệu”, vì ngụy biện này của tác giả, ngay cả khi được sử dụng, vẫn không có hiệu quả. Trong khi cả hệ thống chính trị, cả xã hội đang sôi sục để cùng chung lưng đấu cật tìm ra biện pháp… thì Mỹ Linh cũng vậy, cô ấy cũng đang góp một tiếng nói trong cái hệ thống chính trị và cái xã hội đó, cho dù nó có vô trách nhiệm (như tác giả đã miệt thị một cách ngụy biện, thiếu căn cứ) hay không.

- đe dọa (Appeal to Fear): Đây là kiểu ngụy biện trong đó thay vì lập luận, đưa ra bằng chứng cho thấy Mỹ Linh sai thì lại có hàm ý đe dọa: Tất cả mọi người đều đang như thế này mà cô lại như thế kia à?

- “sức ép về bằng chứng” (Burden of Proof): Ví dụ của ngụy biện này như sau: “Theo tôi, chắc chắn là có ma. Vì sao à? Thì anh thử chứng minh xem? Đấy, anh không chứng minh được là không có ma. Như vậy tức là có ma”.

Ở đây, tác giả cũng đẩy sức ép về bằng chứng sang cho ca sĩ Mỹ Linh: Cô có biện pháp tháo gỡ vướng mắc, giải bài toán ách tắc giao thông không mà cô dám lên tiếng?


5.


Trích: “Ngay sau khi cô ca sỹ này đăng đàn vài ngày, tại cuộc họp của Thành ủy Hà Nội bàn về vấn đề chống ùn tắc, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị tâm sự “Gia đình tôi đã hạn chế đi xe cá nhân để giảm ùn tắc”. Sự gương mẫu của Bí thư Phạm Quang Nghị hẳn sẽ là một tấm gương lớn cho nhiều người noi theo.

Ông cho rằng: “Nhiều cá nhân khi bị đụng chạm quyền lợi thì phản ứng gay gắt. Bỏ ra cả tỉ đồng mua xe thì không công khai rằng tiền từ đâu ra, trong khi đóng vài triệu xây dựng đường thì phản ứng”.


Lỗi nghiệp vụ báo chí: “Sự gương mẫu của Bí thư Phạm Quang Nghị hẳn sẽ là một tấm gương lớn cho nhiều người noi theo” là một cách viết suy diễn, chủ quan, cảm tính (chưa nói đến sự thiếu công bằng, và dụng ý xu nịnh).

Ngụy biện “Appeal to Authority”, tạm dịch là “viện dẫn thẩm quyền”: Đây là cách viện dẫn ý kiến của một người thực ra không phải là nhân vật chính đáng để có thể được trích dẫn. Phía trên bài, tác giả có ý cho rằng Mỹ Linh, với tư cách ca sĩ, không xứng đáng để nói về chính sách thu thuế và phí của Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng. (Trong khi thực ra Mỹ Linh hoàn toàn có thể phát biểu với tư cách một người dân có sở hữu ô-tô, và sử dụng ô-tô để tham gia giao thông). Vậy ở đây, ông Phạm Quang Nghị – với các chuyên ngành ông từng học là lịch sử và triết học trường Nguyễn Ái Quốc – có phải là nhân vật xứng đáng hơn Mỹ Linh để được tác giả viện dẫn, muốn số đông phải noi theo?


6.


Trích: “Nữ ca sỹ Mỹ Linh: Nhà rộng 1,3 hecta, hai vợ chồng mỗi người một chiếc xe hơi. Đấy là chưa kể xe của Mỹ Linh là xe Mitsubishi Grandis có 7 chỗ ngồi. Như vậy là một mình nữ ca sỹ mỗi khi ra đường đã chiếm diện tích bằng 4 người đi xe máy. Hẳn nữ ca sỹ cũng muốn đóng phí cho “đỡ ngại” với mọi người!

Tôi cũng xin cược rằng: Ca sỹ Mỹ Linh với son phấn, váy vóc xúng xính, quần áo thời trang chắc hẳn sẽ hiếm khi dám rời xế hộp vủa mình để leo lên xe bus, chung tay góp phần giảm ách tắc giao thông như Bộ trưởng Thăng. Đơn giản thôi, xế hộp có, lên xe bus làm gì, vừa đông người vừa… hỏng váy!”.


Ngụy biện “gây thù chuốc oán” được sử dụng triệt để. Bên cạnh đó là ngụy biện “tấn công cá nhân” (Personal Attack), một loại lỗi ngụy biện kinh khủng bởi vì nó rất… vô học.


7.


Trích: “Chuyện Mỹ Linh đăng đàn khen chê cũng nhắc chúng ta nhớ lại một cái bệnh rất xấu mà truyền thông đang mắc phải: Khi nhà nước cần lấy ý kiến về một vấn đề gì đó thì không ít người nhảy vào chê bai một cách thiếu khách quan, không mang tính xây dựng:

Lấy ý kiến về công trình xây dựng thì hỏi ý kiến… nhà thơ.

Lấy ý kiến về việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm thì hỏi… nhà văn hóa.

Lấy ý kiến về chính sách giao thông, các kỹ sư còn chưa kịp nói gì thì ca sỹ, nghệ sỹ đã… lên tiếng ầm ầm”.


Nếu bàn ra ngoài văn bản thì có thể đồng ý với tác giả phần nào, tuy nhiên, xét trên văn bản, đây là những đoạn viết chủ quan, cảm tính, miệt thị, không bằng chứng.


8.


Trích: “Ai cũng thừa nhận rằng: bất cứ một cuộc đại phẫu nào cũng phải chịu đau, trong cuộc sống muốn có được thứ này thì phải hi sinh thứ khác, muốn đạt được cái đại cục thì phải hi sinh cái tiểu tiết. Còn nếu muốn cái gì cũng được, chắc phải lên… thiên đàng – thông minh và xinh đẹp như Mỹ Linh, chắc sẽ hiểu điều đó!

Người dân yêu mến Bộ trưởng Đinh La Thăng vì ông là con người hành động. Không lẽ giờ Bộ trưởng phải “nằm im thở khẽ”, đừng đụng chạm đến quyền lợi của ai thì mới làm cho nữ ca sỹ hài lòng!”.


Xin nhắc lại một đoạn ở trên: Ở đây có lỗi nghiệp vụ báo chí: “Người dân yêu mến Bộ trưởng Đinh La Thăng vì ông là con người hành động” là một cách viết suy diễn, chủ quan, cảm tính (chưa nói đến sự thiếu công bằng, và dụng ý xu nịnh).

Ngụy biện “gây thù chuốc oán” được sử dụng triệt để. Bên cạnh đó là ngụy biện “tấn công cá nhân” (Personal Attack), một loại lỗi ngụy biện kinh khủng bởi vì nó rất… vô học.


Friday, 16 December 2011

Giọt nước mắt của lề phải

Trong suy nghĩ của nhiều người ngoài ngành, qua phản ánh của phim ảnh, nghề báo đẹp như được phủ một lớp hào quang.

Nhà báo được tiếp xúc với số lượng người cực lớn, trong đó có nhiều quan chức cao cấp, văn nghệ sĩ nổi tiếng. Nhà báo có thể “dồn” một ông cốp tới lúc phải đắng họng, có thể vạch trần những âm mưu xấu xa, có thể bá vai bá cổ một nhà văn chụp ảnh, hay ôm hoa đứng bên các nghệ sĩ. Nhà báo có xu hướng là người quảng giao, rất hiểu biết, nói chuyện hay ho, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, giữa biết đủ ngóc ngách của xã hội. Nhà báo có xu hướng thông minh, hài hước, dũng cảm, biết chụp ảnh. Nghề báo là nghề đầy vinh quang và có cả sự phiêu lưu mạo hiểm…

Đó là suy nghĩ của nhiều người ngoài ngành về nghề báo và nhà báo. Tất nhiên, không phải 100% ý kiến đánh giá đều như vậy. Ở thái cực kia, người ta lại nghĩ nhà báo Việt Nam là cái lũ đầu rỗng, nỏ mồm chém gió và nói phét, đã thế lại đểu, chỉ giỏi vặt tiền doanh nghiệp, nói tục chửi bậy kinh khiếp mà viết lách thì không bài nào sạch lỗi.

Người ta cũng có thể nghĩ nhà báo Việt Nam là một lũ cừu, cứ sểnh ra là viết sai, viết láo, viết không có lợi cho tình hình chung, làm phương hại tới quan hệ giữa Việt Nam và một quốc gia nào đó.

Người ta còn nghĩ nhà báo Việt Nam là một bọn bồi bút, bọn lưỡi gỗ tuyên truyền phản dân hại nước, ngậm miệng ăn tiền. Không đếm được có bao nhiêu lời mạt sát “lề phải” trên mạng: “não nhẵn”, “óc phẳng”, “hèn hạ”, “ngu xuẩn”, “vô lương tâm”…

Tuy nhiên, không thể tóm gọn diện mạo của cả làng báo Việt Nam trong một vài tính từ tích cực hay tiêu cực nào. Vì họ có tất cả những gương mặt ấy, khía cạnh ấy. Và dù thế nào đi nữa, trong đội ngũ các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa-tư tưởng (cách gọi khác của từ “đàn cừu”), vẫn luôn có những nhà báo lề phải ngày đêm lặng lẽ mang những gì tốt đẹp nhất mình có thể tìm được đến cho độc giả.

Tôi kính phục họ - những nhà báo trung thực, giấu sự phản kháng vào trong thầm lặng. Thật tiếc là, dẫu vô cùng muốn viết về họ, nhưng ngay cả lúc này, tôi vẫn cứ phải giấu tên các nhà báo ấy, để họ ở yên trong trận tuyến của họ - vì lẽ mọi lời nói ám chỉ đến họ đều có thể trở thành thông tin chỉ điểm.

“Nhưng chúng ta không thể bỏ mặc thế giới này…”

Họ trước hết là những người rất thông minh, sắc sảo. Và chúng ta đều hiểu là, một người có đầu óc thông minh, sắc sảo, biết xét đoán và biết phản biện, sẽ không bao giờ chấp nhận sự định hướng, lừa mị, bưng bít. Không thể che mắt họ bằng lối nhồi sọ của thế kỷ trước.

Họ cũng “phản động” chẳng kém bất kỳ nhà báo tự do, blogger lề trái nào. Nhưng trong hoàn cảnh của họ, họ không thể thoải mái viết bài phê phán, chỉ trích rồi đưa lên mạng tùy thích. Họ im lặng, cố gắng mang đến cho độc giả những thông tin tốt nhất có thể có được, thông qua một lối diễn đạt nhẹ nhàng nhất, và chỉ thầm ước mong: rồi độc giả sẽ hiểu.

Không có họ, ai là người đưa những thông tin đầu tiên về đại dự án bauxite 2009 ở Tây Nguyên ra công luận?

Không có họ, ai đưa những phát ngôn “đỉnh cao trí tuệ” trong chính trường Việt Nam lên mặt báo? Ai ghi lại những câu nói “bất hủ”, phản ánh trình độ (ít nhất là khả năng tư duy logic, khả năng diễn đạt) đáng báo động của một bộ phận không nhỏ quan chức nước nhà?

Không có họ, ai phản ánh về những vụ dân thường chết trong đồn công an một cách bí hiểm? Cho dù nhiều sự việc đau lòng như thế có thể chẳng đi về đâu, nhưng ít nhất, cũng nhờ có họ mà chuyện đã được đưa ra công luận.

Không có họ, ai viết về mãi lộ? về lũ lụt, tai nạn, tiền cứu trợ bị bớt xén hay hàng cứu trợ toàn bột giặt? về những tai nạn thảm khốc – cho thấy một xã hội đầy rủi ro, tỷ lệ tử chắc chắn là cao hơn mức 6/1.000 người dân/năm rất nhiều? về những bê bối trong trường học, bệnh viện? về một Vinashin vỡ nợ? Tất nhiên, việc báo chí viết về Vinashin hay các bê bối tương tự rất có thể chỉ là kết quả của những đấu đá nội bộ “trên thiên đình”, trong đó báo chí được sử dụng làm công cụ, vũ khí để bắn giết nhau, nhà báo chỉ là những con tốt mà thôi. Nhưng dù sao thì lũ tốt đen ấy cũng đã làm được công việc đưa một phần sự thật ra ánh sáng.

Cũng có những lúc lề trái và lề phải “phối hợp tác chiến” một cách rất hoàn hảo. Hình ảnh những người dân đi đầu trong đoàn biểu tình mùa hè năm 2011, giương cao tờ báo Thanh Niên với hàng chữ nổi bật trên trang nhất: “Không chủ trương trấn áp người biểu tình yêu nước”, có đủ nói lên sự ủng hộ ngấm ngầm của lề phải cho lề trái chăng? Tôi nhớ ở đâu đó, một độc giả bình luận: “Báo Thanh Niên đã góp sức để người dân thể hiện lòng yêu nước một cách an toàn – và quý báo cũng… an toàn!”.

Họ cũng ra đi. Ra đi nhiều lắm. Cứ sau mỗi vụ tờ báo nào đó bị xử lý, rất có thể là lại có hàng loạt người “bay”. Nhất là với cái thứ văn hóa đổ vấy của người Việt Nam, khi một loạt bài được “trên” biểu dương, thì lãnh đạo tòa báo hưởng, mà khi loạt bài bị “đánh” thì chỉ có thằng đánh máy, con sửa mo-rát là chết, mà lại là chết trong âm thầm, không ai hay biết.

Cũng nhiều người tự động bỏ đi, vì chán ngán, vì bế tắc. Một trong những người ấy đã gửi tôi một dòng tin nhắn mà không bao giờ tôi quên được: “Nhưng chúng ta không thể bỏ mặc thế giới này cho những kẻ mà ta khinh bỉ”. (1)

Vì nhân dân

Năm 2009, trong một bài về “Chuyện làm báo ở Sài Gòn trước 1975”, tôi đã viết: “… nghề báo thì bao giờ cũng vậy, là niềm vui, là nỗi buồn, là lòng nhiệt tình của tuổi trẻ và cả những giọt nước mắt”. Đó thực chất là điều tôi muốn nói về báo chí Việt Nam sau năm 1975. Tôi không biết trong cuộc chiến thầm lặng chống lại sự bưng bít, bóc trần cái xấu, thúc đẩy sự minh bạch, bao nhiêu nhà báo đã lau nước mắt.

Chiều 2/8/2011. Ngày ấy, ở Hà Nội diễn ra hai sự kiện: phiên xử phúc thẩm TS. Luật Cù Huy Hà Vũ và cuộc họp giao ban báo chí của Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, với nội dung thông báo kết quả điều tra vụ “đạp mặt người biểu tình”.

Cảm giác “lạnh người” khi nghe tin ấy: Bộ Công an tổ chức họp báo ngay tại Thành ủy Hà Nội (giữa trung tâm thủ đô) để thông báo kết quả điều tra, và trước đó, tin đồn ít nhiều rằng đã có những cuộc tiếp xúc, điều đình giữa công an và người biểu tình bị đạp mặt – anh Nguyễn Chí Đức. Chúng tôi đều hiểu rằng, không có lý gì mà công an tự tin đến thế. Chắc là sẽ có một diễn biến gì đó…

3 giờ chiều, từ ngoài đường, tôi gọi điện cho bạn (vừa ở cuộc họp báo ra):

- Tình hình sao rồi mày?

- Xong rồi. Họ bảo tay Đức chống đối, ngồi bệt xuống đất, nên công an phải khiêng lên xe đưa về đồn. Ông Đức cũng bảo không bị ai đánh, viết tường trình nói rõ thế rồi.

- Còn cái clip kia?

- Không xác định được có phải là giả không.

- Thế bây giờ mày định…?

- Thì về viết bài, có thế nào viết như thế chứ còn định gì. So what? (thế thì sao)

- So what cái cục cứt! – chưa bao giờ tôi thô lỗ như thế trên điện thoại di động. – Mày định thế nào? Mày muốn cứ thế mà tương vào bài à? Mày không hỏi Chí Đức lấy một câu à?

- Mày muốn gì? Có giỏi thì mày viết đi, viết xem có đăng được không?

Hai người chửi nhau một trận nảy lửa trên điện thoại.

- Đừng có vô lý thế. Mày phải hiểu là không thể khác được. Trong trường hợp này tao chỉ có thể làm hết sức mình là phản ánh lại đúng sự việc qua lời của công an, và sẽ ghi rõ là “theo kết luận điều tra”. Thông tin được chừng nào tới người đọc tốt chừng ấy. Mày viết theo kiểu đa chiều, lấy ý kiến Chí Đức, xem có đăng được không? Sao cáu kỉnh vô lý thế? Có phải lỗi của tao không?

Đến lượt tôi ngồi bệt xuống đất, tay run bắn lên vì giận. Phải, chính tôi mới là kẻ vô lý. Tại sao tôi lại gầm lên trên điện thoại, lại văng tục với bạn tôi – nhà báo mà tôi nể phục, quý trọng, nhà báo mà tôi vẫn thường yêu mến bảo: “Như John Lennon và Paul McCartney, hai ta song kiếm hợp bích”. Tại sao tôi lại nói bạn như thế, trong khi cả hai đều hiểu ai là những kẻ phải chịu trách nhiệm về tất cả chuyện này.

Bất cứ người làm báo chuyên nghiệp nào cũng hiểu quá rõ rằng, “trung thực, khách quan, công bằng” là các nguyên tắc đạo đức hàng đầu; và nếu ở một nền truyền thông đa chiều như phương Tây, thì sau khi dự một cuộc họp báo của cơ quan công an như thế, việc tiếp theo phóng viên phải làm là phỏng vấn “phía bên kia”, tức là nạn nhân Nguyễn Chí Đức, để xem anh có ý kiến như thế nào, có thực anh đã viết tường trình khẳng định mình không bị đạp mặt hay không.

Nhưng báo chí nước mình nó khác, khác ghê lắm. Mà chẳng riêng báo chí, nói chung là cái nước mình nó khác. Video clip ghi lại hình ảnh vụ đạp mặt không được thừa nhận một cách thản nhiên. Cuộc họp báo của cơ quan công an, tổ chức tại Thành ủy Hà Nội, không có mặt Nguyễn Chí Đức, cũng không mời bất cứ một ai trong số những người đã ký kiến nghị đề nghị xử lý nghiêm vụ đạp mặt công dân. Kết luận chỉ hàm ý đơn giản là Nguyễn Chí Đức ăn vạ. Hỡi ôi, cả một hệ thống xông vào vùi dập một công dân! Và chúng tôi đã chẳng thể làm gì để bảo vệ công dân ấy.

Nhưng bạn tôi nói đúng. Chúng tôi không làm khác được. Trong một nền báo chí được định hướng chặt chẽ, sát sao. Trong một nền truyền thông nơi “quyền bình luận” của nhà báo bị triệt tiêu sạch sẽ – đừng hỏi vì sao báo chí (lề phải) Việt Nam bao năm qua không có nổi một cây viết bình luận cho ra hồn; phóng viên, nhà báo đâu có cái quyền ấy; nó là quyền của lực lượng “chống âm mưu diễn biến hòa bình” kia. Trong một nền truyền thông nơi báo chí bị coi như công cụ, nhà báo không khác gì con chó, khi nào bảo sủa thì sủa, bảo im thì im. Thì người làm báo phải lựa chọn. Hoặc là im lặng để cố gắng đưa được thông tin tới bạn đọc chừng nào tốt chừng ấy. Hoặc ra đi.

Và trong cuộc chiến lặng thầm đưa thông tin tới bạn đọc, nhiều nhà báo chỉ còn biết gạt nước mắt, thở dài mỗi khi bị hiểu nhầm, bị nghe chửi (oan) là “lưỡi gỗ”, “chó lợn”, “ngu xuẩn”… Đôi khi, họ làm tôi nhớ đến một câu hát buồn:

“Many times I’ve been alone,
and many times I’ve cried.
Many ways you’ve never known,
but many ways I’ve tried…”
(2)

Ngước mắt nhìn trời…

Năm 2011 khép lại bằng một vài sự kiện, trong đó có chuyến về nước của GS. Trịnh Xuân Thuận, nhà vật lý thiên văn người Mỹ gốc Việt. Một trong những nhà báo thầm lặng mà tôi cũng rất yêu mến, khi tôi hỏi “có theo sự kiện này không”, đã trả lời: “Khi thất vọng với mặt đất thì là lúc nên nhìn lên trời”.

Dẫu là một câu nói đùa, nhưng nó đúng. Nhìn lên trời cũng là một cách để bớt ức chế với mặt đất. Nếu không ngước mắt nhìn trời, họ – những nhà báo vẫn cố gắng bám trụ với nghề, chấp nhận cay đắng, chấp nhận sự định hướng của một lực lượng mà năng lực truyền thông hẳn nhiên là thua xa họ – sẽ không chịu nổi bao nhiêu bụi bặm, rác rưởi.

Thôi thì chúng ta có thể hy vọng rằng, mọi việc được làm trên thế giới này đã được tiến hành bằng hy vọng.


Ghi chú:
1. Tiểu thuyết “Suối nguồn” (The Fountainhead, 1943) của Ayn Rand.
2. Ca khúc “Con đường dài và khúc khuỷu” (The Long and Winding Road, 1970) của “The Beatles”.
3. “Everything that is done in the world is done by hope” (Martin Luther).

Thursday, 27 October 2011

Giao ban với HTV

Ở các tòa soạn báo, hay có những cuộc họp định kỳ (hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày, thậm chí hàng buổi như ở Ban Thời sự - Đài Truyền hình), gọi là “giao ban”. Tại đó, ban biên tập, thư ký tòa soạn, những người phụ trách khối nội dung… hay nói chung là lãnh đạo, sẽ nhận xét những tin bài nổi bật trong tháng/tuần/ngày/buổi vừa qua, cho ý kiến đánh giá - chỉ đạo, nêu ra các lỗi nghiệp vụ, thưởng và phạt các phóng viên tương ứng.

Ðặt giả thiết, nếu người viết những dòng này là lãnh đạo (của Đài Truyền hình Hà Nội - HTV), tại cuộc họp giao ban sau bản tin thời sự tối 21/8 về “một nhóm người tụ tập biểu tình, gây rối”, tôi sẽ nhận xét “quân” của mình sao nhỉ?

Hình ảnh và lời bình khớp nhau như thế nào?

Trong phóng sự truyền hình, phim tài liệu, hình ảnh và lời bình phải gắn bó với nhau một cách hài hòa. Tốt nhất là “lời bình hơi vượt ra ngoài hình ảnh một chút”, tức là nói những điều hình ảnh không truyền tải/ minh họa hết được.

Có hai dạng lỗi lớn như sau:

- Hình ảnh và lời bình chồng chéo, trùng lặp. Ví dụ kinh điển là, sẽ không gì tẻ nhạt hơn khi trên khuôn hình hiện một cánh đồng lúa vàng, lời bình kèm theo: “Đồng lúa”; “Đây là cánh đồng lúa vàng”; “Các bạn đang ngắm một cánh đồng lúa vàng”…

- Hình ảnh và lời bình không khớp nhau, hình một đằng, lời một nẻo. Ví dụ thế này: Biên tập viên truyền hình (tạm gọi là “phóng viên” - PV) đưa tin về vụ chị N.T.H. chết vì giải phẫu nâng ngực ở cơ sở thẩm mỹ A. Khi phóng viên đến hiện trường, chủ cơ sở đã bỏ đi, nhà khóa cửa. PV bèn xử lý phóng sự như sau:

Hình ảnh: Toàn cảnh cơ sở thẩm mỹ A, nhìn từ bên ngoài. Hai cánh cửa sắt đóng kín, phía trên là tấm biển: “Thẩm mỹ viện A”. (Lời bình: “… Làm đẹp là nhu cầu chính đáng của người dân, đặc biệt là chị em phụ nữ…”).

Chuyển cảnh. Toàn cảnh: Quán cóc bên kia đường, đối diện cơ sở thẩm mỹ A. Một toán thanh niên ngồi uống trà đá, hút thuốc. (Lời bình nối tiếp câu trên:“… Ngày càng có nhiều người có nhu cầu làm đẹp…”).

Cách xử lý hình ảnh và lời bình như thế sẽ khiến khán giả mặc nhiên nghĩ rằng toán thanh niên ngồi trà đá trong quán nước kia là những người có nhu cầu làm đẹp.

Ví dụ khác: Phóng viên đưa tin Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ.

Hình ảnh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rảo bước cùng các cán bộ, vệ sĩ… trên sân bay, chuẩn bị lên máy bay. (Lời bình: “Cùng đi với Thủ tướng là đoàn các quan chức cao cấp của Đảng và Nhà nước. Trong chuyến đi này, Thủ tướng sẽ có cuộc gặp với…”).

Chuyển cảnh. Trung cảnh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đứng trước cửa máy bay, cười, vẫy tay chào những người ra tiễn đứng dưới đường băng. (Lời bình nối tiếp câu trên: “… (sẽ có cuộc gặp với) một số doanh nghiệp cá tra, cá basa của Mỹ, để bàn về…”).

Cách dựng hình này khiến khán giả mặc nhiên nghĩ rằng ê-kíp truyền hình coi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là một doanh nhân mua bán cá tra, cá basa, hoặc ít nhất cũng nhầm như thế.

*

Trở lại với phóng sự của HTV1:

Hình ảnh những người biểu tình, trong đó có một số người mà công luận đã biết mặt như Nguyễn Văn Phương (lúc đó là nhân viên công ty Việt Long), GS. Huệ Chi, TS. Nguyễn Văn Khải (“ông già ozone”), nhà văn Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Thạch (tác giả sáng kiến “Tủ sách dòng họ”)…

Lời bình của HTV1: “… Việc tham gia biểu tình lại trở thành tấm bia che chắn cho các thế lực thù địch phản động đằng sau đang ráo riết chia rẽ khối đại đoàn kết, kích động tư tưởng hằn thù dân tộc…”, “Lợi dụng vỏ bọc yêu nước, một nhóm người bị các thế lực phản động trong nước và nước ngoài kích động đã tụ tập biểu tình, hòng lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin không nắm bắt thông tin đầy đủ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, cản trở và chống đối lực lượng chức năng làm nhiệm vụ...”.

Tuyệt! Lời bình khớp với hình ảnh một cách không thể hài hòa hơn, để thể hiện chính xác ý đồ của (các) tác giả phóng sự – cho rằng tất cả những người xuất hiện trên hình đều hoặc là phản động đi lợi dụng kẻ khác, hoặc là người nhẹ dạ cả tin bị phản động lợi dụng.

Ở đây xin mở ngoặc đơn nói thêm: khi “Nhà đài” bị một số trí thức đâm đơn kiện, Tòa án Đống Đa xả thân bênh HTV, cho rằng: “Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội đưa tin về sự việc có hình ảnh các ông nhưng không nêu đích danh cụ thể ai, không xuyên tạc, cũng không có lời bình, nhận xét có nội dung vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm và gây thiệt hại đến cá nhân nào”.

Đến đây thì vấn đề nằm ở chỗ Tòa án phải xác định được những từ “tấm bia che chắn”, “thế lực thù địch phản động”, “ráo riết chia rẽ khối đại đoàn kết”, “kích động tư tưởng hằn thù dân tộc”, “lợi dụng vỏ bọc yêu nước”, “hòng lôi kéo”, “nhẹ dạ cả tin”, “không nắm bắt thông tin đầy đủ”, “gây ảnh hưởng xấu”… có phải là “xúc phạm danh dự, nhân phẩm” hay không.

Nếu câu trả lời là không thì chúng ta có thể yên tâm rằng phản động là yêu nước.

Cái nước mình nó khác!

Một trong những nguyên tắc của đạo đức nhà báo là trung thực và khách quan. Nếu một bài báo, một tác phẩm truyền hình đưa tin “phản ánh chính xác thực tế” mà chỉ nêu thực tế của một bên, thì vẫn sẽ là không trung thực, không khách quan.

Do đó, điều mà nhà báo nào cũng phải ý thức nằm lòng, là khi tác nghiệp, không được phép hùa vào theo ai đó, không được dùng từ ngữ gay gắt và ngoa ngoắt, không được ủng hộ lộ liễu một tổ chức nào, v.v… Nếu đưa tin cho rằng một nhóm người là “phản động” hoặc bị “phản động lợi dụng”, nhà báo bắt buộc phải lấy ý kiến của ít nhất một người trong số đó hay nói cách khác, phải để các bên có cơ hội lên tiếng bình đẳng.

Một nguyên tắc khác là: “Nếu sai, phải nhận!”. Nhà báo cũng như tờ báo phải có thái độ và cách hành xử đó. Đã sai là nhận trách nhiệm, nhận lỗi, và xin lỗi, bồi thường. Không có chuyện sử dụng uyển ngữ, nói tránh đi thành “nói lại cho rõ” chẳng hạn.

Ðương nhiên, đây là nguyên tắc đạo đức nhà báo theo chuẩn mực của Phương Tây và ở một phần đáng kể trên thế giới. Còn ở Việt Nam, có lẽ vẫn phải mượn ý nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến: Báo chí mình nó khác, khác ghê lắm!


http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3061



Monday, 20 June 2011

Mừng ngày Báo chí Cách mạng: Những chàng Z

Câu chuyện tôi kể sau đây có thể khiến vài người khó chịu, chí ít cũng không thấy thoải mái; vài người buồn, thậm chí đau khổ; một số ít người cười nhạt; một số ít chẳng hiểu gì. Nhưng dù sao thì tôi cũng cứ kể, và chấp nhận mọi phản ứng (bằng cảm xúc) từ phía người nghe.

Trước khi bắt đầu, có nhẽ cần đôi lời dẫn nhập. Xã hội dân sự ở Việt Nam chưa kịp – nói đúng hơn là chưa được “tạo điều kiện” – phát triển, nhưng (mẹ khỉ) cái lũ lắm chuyện là bọn viết lách ấy, đã có thú lập hội lập nhóm rồi. Cánh nhà báo luôn bị coi là chiếu dưới trong làng viết, nhưng cũng đú, cũng thích kết thành bè thành phái, bày ra các nhóm nào Ngỗng Trời, nào Vịt Đực, nào Lương Sơn Bạc, nào Châu Chấu, nào Cào Cào v.v.

Hội nhà báo không thẻ, hay là nhà báo tự phong (self-proclaimed journalists) chúng tôi cũng hứng chí lập một nhóm, gọi là Chi Bộ. Các thành viên của Chi Bộ có thói quen gọi nhau bằng các loại mã số, kéo dài suốt từ Z1 cho đến Z131. Nhân vật chính trong câu chuyện tôi kể dưới đây dĩ nhiên có tên riêng, nhưng cho phép tôi gọi anh ta bằng tên chung là Z vì biết đâu anh ta có thể đại diện cho vài người trong chúng ta (tôi hy vọng thế). Cũng xin lưu ý bạn đọc: Nhà báo ở Việt Nam thì cũng có ba bảy loại, như anh chàng này chỉ là một loại mà thôi.

* * *

Trong làng báo ở xứ Việt kia, có một kẻ tên là Z. Như tuyệt đại đa số nhân vật chính diện trong các tác phẩm văn học của chúng ta, Z rất đẹp trai, thông minh và tốt bụng, nên được người người yêu quý. Đến tuổi vào đại học, Z thi đỗ Học viện Quan hệ Quốc tế. Không hiểu trời đất run rủi thế nào mà khi ra trường, Z trở thành một trong số hàng nghìn phóng viên đang hành nghề trên đất Việt.

Z vốn thông minh, tự biết mình không được đào tạo bài bản về báo chí nên ra sức tự học. Sẵn có chút tiếng Anh, lại đá thêm tí tiếng Pháp, Z ngày đêm lùng sục tìm các tài liệu về báo chí, hì hụi đọc, dịch, rồi khẩn trương áp dụng vào thực tế. Z những muốn làm cái gì cũng sâu hơn người khác một bậc, cao hơn người khác một trình. Gần một thế kỷ trước, nhà văn Nam Cao đã từng viết thế này, chính là viết về người như Z:

Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn...”.

Ông tổ nghề báo không hoàn toàn phụ Z. Z cũng làm ra được nhiều tác phẩm có chút ít giá trị, theo nghĩa sạch nước cản và nếu ai đó có đọc thì chắc cũng sẽ nhớ được một lúc, vì như đã nói, Z vốn thông minh. Nhưng vấn đề của Z là không có mấy ai xem các tác phẩm của Z cả, tại Z toàn làm cho hết Người Bảo vệ Pháp luật, Nông thôn @, Điện Lực, Dầu Khí, Dân chủ Cơ sở, đến mùa World Cup lại làm cộng tác viên đắc lực cho tờ Tin nhanh Nông nghiệp.

Z làm cả truyền hình nữa, hết Mua sắm 24 giờ rồi lại Nông nghiệp 360 độ, thiếu chút nữa làm cả chương trình chống HIV/AIDS với tên gọi “Sex 24x7”. Z đẹp trai là thế, có tài ăn nói, chịu khó chịu khổ lên hình quần quật, thế mà ra ngoài đường vẫn chẳng ai biết Z là ai. Z tự biết mình không tài vượt thiên hạ, khốn nỗi là nhà báo, mà trước hết cũng là một thằng đàn ông, nên Z thấy bức bối lắm. Hội nhà báo của Z cứ mỗi lần họp chi bộ với nhau, quanh đi quẩn lại lại nói chuyện nghề, rồi chỉ một lát là anh em đã thấy Z to tiếng khi nói về các tác phẩm báo chí đoạt giải của những X, những Y nào đấy:

- Mịa, bài đó viết như kít thế mà cũng được giải. Sặc giọng nịnh bợ. Mà nói thật, không nịnh mấy ảnh thì có mà ăn giải rút!

Có hôm Z lại bảo:

- Em Tuyết Hạnh vừa được anh tổng biên tập đôn lên thư ký tòa soạn. Mình làm cùng em ấy hồi trước, mình biết. Khốn nạn, tài em hèn, sức em mọn, được mỗi cái vốn tự có dồi dào, hị… Nó lên là chết anh em ở đó rồi.

Cả đám nhao nhao phản đối:

- Ông khinh người vừa thôi. Hồi trước nó không có năng lực, bây giờ nó có thì sao? Làm sao ông biết được? Ông là ông tư duy rất không biện chứng đấy nhá! Ghen tị hả?

Z không cãi lại được, đành chỉ ngồi thở dài. Kể ra chúng nói đúng, Z cũng hơi có phần ghen tị. Càng ngày Z càng thấy mình giống cái nhân vật được Nam Cao mô tả kia. Có chút Tây học vào người, Z làm cái gì cũng muốn đạt tới tầm chuyên nghiệp của nó. Z vốn khinh ghét những tên nhà báo ăn tục nói phét, nhiều khi chỉ có mỗi cái việc là nghe người ta phát biểu rồi chép lại cho đúng mà cũng không nên hồn, tệ hơn nữa còn cố tình dựng chuyện để viết bài theo ý mình. Chính chúng làm xấu mặt những nhà báo trong trắng như Z, khiến Z mang tiếng lây - “nhà văn nói láo, nhà báo nói điêu”. Z cũng khinh luôn, ghét luôn cả cái lũ nhà báo xuống cơ sở vòi tiền trợn mắt, ăn tiền tưởng chết (vì nghẹn). Nhưng Z cũng phải công nhận, chúng có uy thì mới dọa được cơ sở sợ xanh mắt lên mà nôn tiền ra òng ọc như thế. Còn loại lìu tìu “Nông nghiệp 360 độ” như Z, có đi dọa lồi cả mắt cũng chẳng đứa chó nào sợ.

Không biết bao nhiêu lần Z muốn đầu tư công sức để làm ra một cái phóng sự thuộc loại “đỉnh cao khó vượt”, nhưng vấn đề là thời gian và tiền. Ngày nào Z cũng phải có cái tin gì đấy gửi cho tòa soạn, cứ phải chạy đua kịch liệt với thời gian. Z như điên lên vì phải xoay tin. Z còn điên lên vì người yêu cứ nhèo nhẽo, lúc nào cũng “Anh đang ở đâu đấy? Tóm lại là anh có đi ăn với em tối nay không, để em còn biết đường mà hẹn người khác?”… không để yên cho Z tập trung làm gì cả. Z như điên lên vì khi xem nhiều tác phẩm của đồng nghiệp, Z biết mình có thể làm tốt hơn, nhưng mất công lắm, mà Z còn lúc nào để làm gì nữa đâu, mà làm có để cho mục đích gì đâu? Tác phẩm Z tâm đắc thì chẳng ai biết tới. Tác phẩm Z đổ huyết đổ lệ đổ tiền túi vào thì không được đăng vì có vấn đề. Z ức, chỉ biết lẩm bẩm: “Mẹ, có vấn đề thì mới nên chuyện mà viết, chứ không vấn đề thì biết viết cái éo gì?”. Và tiền, nỗi đau muôn thuở của Z là tiền. Nhuận bút cộng lại tưởng là khá, nhưng kiếm ra bao nhiêu Z nướng bấy nhiêu vào ăn nhậu với quần chúng ở dưới cơ sở. Trông Z đẹp trai ngời ngời, ăn nói khéo léo, mà đến lúc trả tiền lại chạy làng thì còn ra cái gì. Vậy nên vì quan hệ, Z phải chi khá tiền. Nhục! Z tự an ủi, thôi coi đó như khoản đầu tư, tính toán làm gì. (Mà đấy là Z còn chưa có một gia đình phải nuôi, lại cũng ít phải chi tiền vào khoản trang phục, trang sức, hóa mỹ phẩm… như các đồng nghiệp nữ đấy, không thì còn túng nữa).

Thế rồi Z đổi tính nết dần. Z trở nên cau có, gắt gỏng. Bạn bè bảo Z yêu nghề vừa thôi, stress mẹ nó rồi. Z thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Z nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Z lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”. Và Z nghĩ đến cái tên mình đang mờ dần đằng sau những tên khác ở những tòa báo và đài truyền hình “có đất” hơn... Rồi Z ra về, thờ thẫn.

Một ngày nọ đi phỏng vấn làm cái tin còi, Z may mắn gặp một người được coi như đại gia trong làng kinh doanh ở Việt Nam (kinh doanh cái gì thì ai cũng biết mà thành ra ai cũng không biết). Z nghe tiếng người này đã lâu, vốn từng mê mẩn nhiều câu nói câu viết của người này, đại khái về giá trị, con người, công bằng xã hội v.v. Mãi lần này đi làm tin mới có cơ gặp, Z thầm cảm ơn nghề báo cho mình tiếp xúc với những thiên tài như thế.

Đại gia quả không hổ danh đại gia, nói chuyện với Z toàn bàn những vấn đề hết sức vĩ mô. Người này có thói quen động tới cái gì cũng phân loại, phân hạng, thành đủ thứ miền, tầng, tỷ như “xét về lĩnh vực thông tin, nguồn tin tốt nhất ở Việt Nam là từ giới lãnh đạo, tốt thứ nhì là từ giới quản lý, tốt thứ ba là từ những người làm nghề, tốt thứ tư mới là bọn nhà báo bẩn thỉu”. Z ngồi nghe, lặng người, rồi bỗng nhớ tới thân phận làm báo của mình mà muốn hỏi đôi câu. Z hỏi:

- Như nhà báo chúng em thì được chia thành mấy loại?

Đại gia nheo mắt nhìn Z, rồi bảo:

- Xét về trình độ, anh phân chia các cô các chú thành ba loại. Loại thứ nhất là loại “TRONG VAI”, tức là các nhà báo “trong vai một người có con đi học xa”, “trong vai một người đi mua hàng”, “trong vai một cô gái bán hoa”, tóm lại là trong vai cái chết tiệt gì đấy.

Loại thứ hai là loại nhà báo “CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐÂY?”. Đó là loại bức xúc, có tinh thần đấu tranh, đi đâu cũng thấy hừng hực muốn bút chiến.

Z vốn thông minh, hiểu ý ngay, đế thêm:

- Kiểu như là “Cơ quan chức năng ở đâu mà không vào cuộc?”, “Thiết nghĩ đã đến lúc…”, “Hỡi những người có lương tri”?

Đại gia gật gù:

- Chính xác. Còn loại thứ ba là loại nhà báo “VẤN ĐỀ KINH PHÍ”. Đó là loại quen khề khà: “À, vấn đề kinh phí thì ở đâu nó cũng thế thôi anh ạ. Chuyện này phức tạp, đòi hỏi một tiếng nói có trọng lượng, đa chiều kích, có sức thuyết phục. Mà như thế vấn đề kinh phí cũng bị đội lên…”.

Z nghe đại gia liệt kê xong hết ba loại, đã buồn lại buồn thêm, bèn hỏi:

- Anh, em xin thề với anh là em chưa bao giờ có trong đầu khái niệm “trong vai”, “chúng ta phải làm gì đây”, hay “vấn đề kinh phí”. Như thế thì em là loại gì?

Đại gia cười hềnh hệch mà rằng:

- À ừ, còn chú nữa nhỉ? Chú thuộc loại nhà báo thứ tư mà anh vừa nhận ra. Loại này mới hình thành từ khi báo chí Tây mon men vào thị trường truyền thông Việt Nam, tức là vào khoảng năm 2000. Loại này dính tí hơi Tây, có tố chất để trở thành nhân tài, nhưng cũng có máu làm loạn. Nếu không có sự hỗ trợ từ một hệ thống, loại này chỉ thành giặc, còn tố chất của chúng thì cứ mãi là tố chất, cũng như Việt Nam ta mãi chỉ có nội lực. Đó là LOẠI NHÀ BÁO ĐÉO AI BIẾT ĐẾN!

Z nghe xong, rụng rời lửa đốt. Chỉ trong khoảnh khắc Z ngộ ra tất cả mọi điều - những uẩn khúc, những xót xa, những khúc mắc, những ẩn ức có trong người từ bao lâu nay. Z quỳ sụp xuống dưới chân đại gia, chắp tay vái lấy vái để:

- Sư phụ ơi, sư phụ ơi… Sao đến giờ con mới gặp Người? Chỉ có sư phụ là nhìn ra vấn đề của con. Xin sư phụ nhận của con một lạy này, cho con được tôn Người làm sư phụ!

Đại gia xua tay:

- Đừng làm thế, ta không thích!

Z vẫn nức nở không nguôi:

- Sư phụ, sư phụ. Xin Người đi làm truyền thông, xin Người mở tạp chí, mở đài truyền hình đi, con xin về đầu quân cho Người, dẫu gan óc lầy đất cũng nguyện một lòng theo Người, không quên ơn Người.

Đại gia cười:

- Anh cũng muốn giúp chú lắm, nhưng anh vốn không ở trong ngành truyền thông, mà ngành của anh thì chú làm gì có chuyên môn mà làm quân của anh. Thôi chú hãy về đi, cứ yên lòng rồi giông tố sẽ qua.

Đại gia lựa lời an ủi mãi, Z mới gạt nước mắt, đứng lên ra về.

Từ lúc gặp người ấy, Z mới thực hiểu ra nguồn cơn của mọi vấn đề. Z không giã từ nghề báo, nhưng cũng không còn buồn nữa, thấy lòng nhẹ nhàng hơn hẳn. Z lấy làm biết ơn ông ta lắm.

Thế rồi một thời gian sau, Z nghe nói vị đại gia ấy bị thất sủng, đang trên con đường đi tới sự phá sản. Z sửng sốt, không hiểu sao người này vốn nổi tiếng cơ trí mưu lược, về cuối đời lại điên như thế. Z ngơ ngẩn hồi lâu, rồi cũng chặc lưỡi: “Thôi, may mà mình không về đầu quân cho ổng. Âu cũng là cái digital!”.


Friday, 27 May 2011

Vỡ trận

Hồi bé đọc Tam Quốc, mình rất nhớ đoạn này, nói theo ngôn ngữ trồng cải bây giờ thì là “Những giờ phút cuối cùng của Vân Trường”:

Quan Công đuổi đánh hơn hai chục dặm, lại nghe có tiếng reo, thì là Hàn Đương ở mé hang núi đổ ra, Chu Thái ở mé hữu kéo đến; Tưởng Khâm quay đánh ập lại. Quan Công vội rút lui. Đi chưa được vài dặm, thấy trên gò núi Nam Sơn, có một số người tụ ở đấy, khói bốc nghi ngút. Trên núi có lá cờ trắng bay phấp phới, đề bốn chữ: “Kinh Châu thổ nhân”. Họ gọi ơi ới: “Những người bản xứ, mau mau ra hàng đi”.

Quan Công giận lắm, muốn lên núi giết bọn ấy. Bỗng ở trong hang núi lại có hai toán quân của Đinh Phụng, Từ Thịnh đổ dậy đất, chiêng chống rầm trời, vây khốn Quan Công mà đánh, tướng sĩ thủ hạ dần dần tán hết. Đánh nhau mãi đến mờ mờ tối, Quan Công trông ra bốn phía núi, thấy toàn là quân Kinh Châu, người thì gọi anh tìm em, kẻ thì réo con gọi cha, tiếng kêu như ri, rủ nhau đi mất cả. Quan Công quát ngăn lại cũng không được.

Thấy đoạn này minh họa rõ cho cái ý “vỡ trận”. Mà hình như kinh tế, giáo dục, báo chí nước Nam ta giờ đang ầm ầm rơi vào thế ấy.

Bấy giờ báo chí đói lắm, nhiều tòa báo phải tung quân đi các nơi trồng cải, bắt doanh nghiệp làm thịt, mò cả vào làng showbiz thịt “sao”, có khi đói quá ăn thịt lẫn nhau. Người nào yếu, mắt mờ chân run không theo được, đành nằm nhà chờ chết hoặc kêu khóc đợi ứng cứu. Báo điện tử câu view điên cuồng, bọn quân sư nghĩ ra ngày càng nhiều tít bệnh hoạn, dân tình tuy vẫn vào đọc, nhưng thực bụng sợ lắm.

Báo sĩ nhiều người thấy tình hình trồng cải, làm thịt dân rối ren như thế, trong lòng không nỡ, muốn viết khác đi, nhưng phi cải ra, động cái gì cũng bị triều đình hạch tội. Số báo sĩ nao núng, muốn bẻ bút về quê làm ruộng ngày càng nhiều. Lắm kẻ sinh phẫn chí, tối ngày uống rượu rồi trông mặt về phía “Trung ương” mà khóc hu hu, tổng biên tập quát ngăn lại cũng không được. Tiếng kêu than vang trời dậy đất…

Vỡ trận rồi còn đâu? Nước Nam ta từ ngày có báo điện tử đã bao giờ suy đến thế này chăng, trời hỡi trời?

Sunday, 13 February 2011

"Thời thanh niên sôi nổi"

Một cuộc khảo sát do báo Sinh Viên Việt Nam thực hiện năm ngoái (2010) với hơn 500 sinh viên một số trường đại học và cao đẳng tại TP.HCM cho thấy: 45,6% bạn trẻ hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống hiện tại; 27,1% bạn trẻ không hài lòng với cuộc sống hiện tại; 27,3% bạn trẻ đang băn khoăn và chưa nghĩ về hạnh phúc ở hiện tại nhưng hơn một nửa trong số 27,3% ấy tin rằng mình sẽ hạnh phúc trong tương lai.

Cũng theo khảo sát trên, các “kiểu” hạnh phúc được các bạn xếp theo thứ tự ưu tiên như sau: 39% bạn trẻ mong muốn kiếm được việc làm phù hợp với năng lực và sở thích, có cơ hội thăng tiến, kiếm được nhiều tiền để thỏa mãn ước mơ học tập và du lịch, chăm sóc chu cấp cho người thân; 33% quan tâm đến sức khỏe; 17% quan tâm đến tình yêu; 11% muốn trang bị đầy đủ các vật dụng hiện đại như xe máy, điện thoại di động, laptop, máy ảnh…

Bạn trẻ, bạn nghĩ sao khi đọc những thông tin này? Về phần mình, tôi nghĩ nếu có một tỷ lệ hơn 40% sinh viên Việt Nam thực sự hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống hiện tại thì đó là điều tốt, rất nên mừng cho các bạn ấy. Tuy thế, trong trường hợp ấy tôi sẽ hơi ngạc nhiên. Tôi nhớ tới câu nói của nhân vật Khảm trong truyện ngắn nổi tiếng “Không có vua” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Người xưa được phong thần dễ nhỉ?”, và tôi cũng muốn hỏi với đúng thái độ ấy: “Người trẻ bây giờ hạnh phúc dễ nhỉ?”.

Nói như vậy dĩ nhiên không phải vì tôi muốn sinh viên Việt Nam phải bất hạnh, cuộc đời phải thăng trầm, sóng gió. Ai dám mong điều đó chứ? Nhưng, đôi khi tôi cứ nghĩ, sao các bạn trẻ lại phải tự giới hạn diện quan tâm và mức độ đa dạng của cuộc sống của mình thế nhỉ? Một doanh nhân, luật gia Việt Nam – ông Nguyễn Trần Bạt – từng nói thế này: “Đặt những vấn đề của đất nước vào trong đời sống tinh thần của mình là cả một công nghệ để nâng mình lên một tầm khác. Tôi thấy rất nhiều thanh niên ngồi với nhau là nói chuyện bia rượu, hoa hậu, bóng đá… Tôi ít thấy ai nói chuyện đất nước, nói chuyện rừng ngập mặn, hiện tượng nóng lên của trái đất. Tôi cầu mong cho thế hệ trẻ bây giờ có nhiều người học được những phẩm chất như vậy, đem nhốt vào trong đời sống tinh thần của mình những vấn đề sống còn của đất nước mà suy nghĩ”.

Nhưng mà thôi, đầu xuân năm mới, chẳng nhẽ lại chúc nhau “một năm ly kỳ, gay cấn” như nhà văn Thảo Hảo từng gợi ý trong tiểu phẩm “Tôi muốn đời tôi màu gì”. Khi viết những dòng này, tôi cũng không có mảy may ý nghĩ rủ rê, hô hào, kích động bạn thanh niên xuống đường biểu tình chống tăng học phí. Tôi chỉ muốn nói là, các bạn trẻ hãy thử mở rộng diện quan tâm của mình đến khoa học, đến nghệ thuật, đến chính trị, đến quản lý và lãnh đạo xem sao. “Thử một lần cho biết”, các bạn sẽ thấy cuộc đời có thêm màu sắc, rất đáng sống.

Thay cho mọi lời chúc mừng năm mới, tôi viết bài dưới đây về một nhân vật đã, đang, và sẽ còn là thần tượng của rất nhiều bạn trẻ Việt Nam, xin coi đó như một món quà tặng các bạn đầu xuân 2011 này.

* * *

"THỜI THANH NIÊN SÔI NỔI" CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP

Năm 2011 này, vị tướng thân yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam tròn 100 tuổi. Đã có quá nhiều sách báo cả trong và ngoài nước viết về ông – nhà quân sự tài ba, người xây dựng và dẫn dắt quân đội Việt Nam, vị tướng huyền thoại của chiến dịch Điện Biện Phủ lừng danh toàn cầu… Nhưng không mấy ai biết về tuổi trẻ, về thời học sinh – sinh viên của tướng Giáp. Và đó cũng là những “bí ẩn” hấp dẫn mà rất nhiều người muốn tìm hiểu.

Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911, trong một gia đình nhà nho ở làng An Xá, nay thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha ông dạy học, bốc thuốc, mẹ làm ruộng. Viết về gia cảnh họ Võ ngày ấy, một nhà sử học người Úc, TS. Robert J. O’Neill, ghi lại trong cuốn “Tướng Giáp – chính trị gia và chiến lược gia” (1969) (1) rằng Võ Nguyên Giáp “sinh trưởng trong một gia đình có thu nhập đủ để ông có thể học hành tới nơi tới chốn, nhưng không dư dật tới mức tạo cho ông một cách tiếp cận truyền thống về đường công danh”.

Cũng phải hiểu rằng, trong hoàn cảnh thời ấy, “thu nhập đủ để ông có thể học hành tới nơi tới chốn” nghĩa là đảm bảo cho chú bé Giáp không phải là một đứa trẻ thất học, nhưng việc theo được hay không hoàn toàn do năng lực của Giáp quyết định. Mà nhà cũng chỉ đủ tiền cho hai anh em trai Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho ăn học thôi, các chị em gái không được ưu tiên.

Từ bé, Võ Nguyên Giáp đã chăm chỉ, hiếu học. Người anh em đồng hao của tướng Giáp sau này là Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại rằng cậu Giáp học chăm và rất giỏi, “hai năm học ở trường tiểu học Đồng Hới, cậu luôn đứng đầu lớp và vào kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu tỉnh. Thời ấy, việc đỗ đầu tỉnh có tiếng tăm lắm. Gia đình hoan hỉ. Cậu về làng được quý trọng”. (2)

Tính hiếu học ấy được hình thành từ tấm bé và sẽ mãi là một phẩm chất nổi bật ở Đại tướng. Một người thân của tướng Giáp cho biết, Võ Nguyên Giáp là một trí thức suốt đời tìm hiểu, suy nghĩ, học hỏi, “dù là tuổi hai mươi, hay là khi tóc bạc”. Ông đọc sách rất nhiều, luôn chịu khó tiếp xúc và lắng nghe, với một sức thu nhận bằng năm bằng mười người khác, đến mức trong giới nghiên cứu lịch sử quân sự phương Tây có chuyên gia đánh giá: “Tướng Giáp là cả một văn phòng”.

Trong nhà giam thực dân.
Ảnh tư liệu, không rõ nguồn.

Tuổi 20 nồng nàn nhiệt huyết

Mùa hè năm 1925, Võ Nguyên Giáp thi đỗ vào trường Quốc học Huế. Cậu đỗ thứ nhì, loại khá. Nhập học, tháng nào cậu cũng đứng đầu lớp, có tên hàng đầu trên bảng danh dự, được cấp học bổng. Và không phải là một cậu thiếu niên học giỏi nhưng lúc nào cũng chỉ cắm đầu vào sách vở mà thờ ơ với thế sự: Ngoài việc học, Võ Nguyên Giáp sớm có sự quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội, đến đất nước thuở ấy đang trong cảnh nô lệ. 14-15 tuổi, cậu đã tìm gặp nhà chí sĩ Phan Bội Châu để hàng tuần nghe cụ nói chuyện. “Biệt nhãn” của cụ Phan cũng đã sớm nhận ra tinh thần cách mạng hay một thiên tư nào đó tiềm ẩn trong con người Võ Nguyên Giáp. Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại, hồi đó, “anh Giáp được cụ Phan chú ý và rất thương. Cụ có mấy chục bộ sách cổ kim, thấy anh Giáp hăng hái, nhiệt tình và ham học, cụ bảo: “Khi nào tôi mất, tủ sách này để lại cho cậu Giáp””. TS sử học Robert J. O’Neill cho rằng: “Khi Giáp còn đi học, tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đã được hình thành một cách có sức thuyết phục và đầy cảm hứng bởi cụ Phan Bội Châu”. Nhưng sự thực có lẽ còn hơn thế: Sáng dạ, tinh thần ham hiểu biết, chịu khó học hỏi, mối quan tâm đến quốc gia, dân tộc, tất cả những phẩm chất ấy cộng thêm những tâm sự của nhà cách mạng già Bến Ngự đã hun đúc nên ở Võ Nguyên Giáp một năng lực chính trị vượt trước tuổi, trước đa số các bạn thanh niên cùng thế hệ.

Tuổi 20 của Võ Nguyên Giáp, như Trung tướng Phạm Hồng Cư đã viết, là một thời kỳ sôi nổi, làm việc cật lực: “Làm nhiều việc cùng một lúc: vừa học thi, vừa đi dạy, vừa viết báo, vừa hoạt động cách mạng. Là chiến sĩ cách mạng, là thầy giáo dạy sử, là nhà báo, là sinh viên…” (3). Nếu chỉ là một chàng thanh niên thông minh, học giỏi, nhưng thờ ơ với “chuyện chính trị”, Võ Nguyên Giáp hẳn không bao giờ làm việc hết mình, sống hết mình để có một tuổi trẻ như thế, và nhiều khả năng là chúng ta sẽ chỉ có một “thầy ký, thầy thông, thầy cãi” vô danh thay vì một vị tướng tài ba, một nhà chính trị chiến lược như Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Năm 1927, Võ Nguyên Giáp viết bài báo đầu tiên, bằng tiếng Pháp: “À bas le tyranneau de Quoc hoc!” (Đả đảo tên tiểu bạo chúa trường Quốc học!), gửi đăng ở tờ L’Annam của luật sư Phan Văn Trường tại Sài Gòn. Bài báo tố cáo mạnh mẽ nền giáo dục ngu dân của những kẻ cai trị. Sau đó, anh tổ chức một phong trào bãi khóa để phản đối việc nhà trường đàn áp học sinh, đuổi học Nguyễn Chí Diểu, cấm học sinh đọc sách báo yêu nước v.v. Với vai trò người cầm đầu, anh bị đuổi học. Nhưng không gì có thể dập tắt khát vọng học tập, đấu tranh, làm cách mạng giải phóng trong lòng người thanh niên yêu nước. Cũng Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại, những ngày ấy, anh Giáp vùi đầu vào tự đọc, tự học, lên một kế hoạch học tập rất nghiêm. Anh đọc đi đọc lại, thuộc lòng từ đầu chí cuối cuốn kịch thơ Andromaque của Racine, Le Cid của Corneille. Anh tập làm văn theo cuốn Stylitstique (Tu từ học). Anh liên lạc để tự học theo một trường giáo dục phổ cập bên Pháp... Cũng thời gian này, anh bắt đầu làm quen với chủ nghĩa Marx. Rồi anh gia nhập đảng Tân Việt, một đảng mà theo anh là có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa rõ rệt, hướng tới sứ mệnh làm cách mạng quốc gia và cách mạng thế giới. Ở Tân Việt, Võ Nguyên Giáp làm công tác tuyên huấn, viết tài liệu tuyên truyền cách mạng. Từ năm 1928, anh kiêm thêm vai trò biên tập viên của Tiếng Dân, tờ báo của cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Song song với làm cách mạng, anh Giáp vẫn tự học Tú tài, và năm 1933, anh đỗ Tú tài phần thứ nhất, hạng ưu, với tư cách thí sinh tự do. Niên khóa 1933-1934, anh học chuyên khoa triết tại trường Trung học Albert Sarraut ở Hà Nội, năm 1934, đỗ Tú tài toàn phần. Đây là một bước đệm để anh tiến tới trở thành sinh viên của Đại học Luật khoa Đông Dương.

Chăm chỉ, ham mê, và xuất sắc

Những người thầy cũng như bạn học cũ của Võ Nguyên Giáp đã dành nhiều lời tốt đẹp để nói về anh Giáp. GS, NGND Nguyễn Thúc Hào, bạn Võ Nguyên Giáp ở trường Quốc học, kể: “Trong kỳ thi vào Quốc học, tôi đỗ đầu còn anh Võ Nguyên Giáp đỗ thứ hai. Tôi còn nhớ anh Giáp trắng trẻo như con gái, tuy đỗ thứ hai, nhưng suốt cả năm học đệ nhất niên, tháng nào anh cũng được làm “major”, nghĩa là đầu lớp, mà tôi thì luôn luôn đứng thứ hai... Anh Giáp hơn tôi một tuổi, nhưng đã có những suy nghĩ của người lớn, còn tôi lúc ấy chỉ là một cậu bé chăm học và ngoan, dễ bảo thế thôi. Các giáo sư Việt cũng như Pháp đều tỏ vẻ bằng lòng đối với hai chúng tôi, nhất là đối với anh Giáp, học giỏi”.

GS Marcel Ner, từng dạy triết ở trường Albert Sarraut, rất quý mến Giáp. Có bài của trò Giáp được GS chấm 17 điểm, vượt hẳn người thứ nhì chỉ được 14 điểm. Ông từng kể lại với ký giả Pháp gốc Việt Gérard Le Quang – tác giả của cuốn Giáp hay chiến tranh nhân dân (1973): “Giáp là một cậu học trò nghiêm chỉnh và say mê việc học hành. Đã xảy ra một chuyện lạ, khiến chúng tôi xích lại gần nhau. Khi thanh tra đang dự lớp tôi, tôi hỏi bài anh Giáp. Anh đứng dậy, nhưng chưa nói được câu nào, đã ngất đi … Trước đó, Giáp từng bị kết án, bị cầm tù, vì đã cùng với một số bạn học quyên góp từng xu cứu tế cho những nạn nhân người An Nam tham gia nổi dậy ở xứ Nghệ. Nay Giáp, cho dù ngập vào việc học hành, vẫn thức rất khuya để chữa bài (cho học trò con nhà khá giả) để phụ thêm vào khoản trả học phí…”. (4)

Vừa học đại học, vừa dạy thêm, vừa viết báo chính trị và làm cách mạng, Võ Nguyên Giáp hầu như không còn thời gian rảnh rỗi. Và không phải không có lúc anh kiệt sức, chuệch choạc. Gérard Le Quang viết:

Ai cũng biết rằng sự nghiệp chính trị và đường học vấn không phải lúc nào cũng song hành, nhất là khi anh lại còn phải kiếm sống nhờ dạy học. Đây hẳn là lý do khiến Giáp đã phải đúp năm thứ hai, do không qua được kỳ thi tháng 10”.

Tuy thế, tinh thần ham mê học tập, năng lực tổ chức và khả năng làm việc gấp đôi, ba người thường, khiến Võ Nguyên Giáp luôn là một sinh viên nổi bật. Theo Gérard Le Quang, “Giáp học khá, đặc biệt xuất sắc ở những môn mà ông say mê, và vào những lúc mà, sau các hoạt động chính trị, vẫn lại thời gian dành cho học tập. Giáo sư Grégoire Kherian dạy kinh tế chính trị và luật vẫn còn nhớ về Giáp như một học trò ưu tú: “Vào năm thứ hai (1935), Giáp đã làm một luận văn xuất sắc về cán cân thanh toán Đông Dương. Tôi đã cho anh ấy tới 17 điểm với nhận xét sau đây: “Một chuyên luận xuất sắc về một đề tài ít được biết đến. Bài có cách trình bày sáng sủa, có phương pháp, và có cá tính”. Bài được giải nhất trong cuộc thi Kinh tế chính trị học cuối năm đó”.

GS luật Gaetan Pirou, quan chức cấp cao của Pháp sang thanh tra Đông Dương về giáo dục, đã chú ý đến Giáp và đề xuất việc đưa anh sang Paris du học, “ra khỏi môi trường thuộc địa”. Sau một ngày suy nghĩ, Giáp từ chối. Le Quang cho rằng đây chính là thời điểm Võ Nguyên Giáp quyết chí lựa chọn con đường cách mạng.

Lời kết

Nhiều năm sau trận Điện Biên Phủ lẫy lừng, giới nghiên cứu phương Tây vẫn đặt câu hỏi, điều gì làm nên thiên tài quân sự cùng tầm nhìn chiến lược của nhà chính trị Võ Nguyên Giáp?

Họ, cũng như chúng ta, chẳng thể nào đưa ra câu trả lời chính xác cuối cùng. Nhưng từ những điều ít ỏi được biết về “thời thanh niên sôi nổi” của Đại tướng, chúng ta có thể thấy rằng, thiên tư của một người trẻ tuổi chẳng là gì khác ngoài tinh thần hiếu học, ý chí nỗ lực vươn lên không ngừng, hăng hái đấu tranh vì một cuộc sống tốt đẹp hơn không phải chỉ cho chính mình mà cho toàn thể dân tộc, cùng đất nước.

---

Chú thích:


[1] “General Giap - Politician and Strategist” do NXB Cassel Australia xuất bản năm 1969.


[2] “Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ” – Phạm Hồng Cư, NXB Thanh Niên, 2004.

[3] “Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ” – Phạm Hồng Cư, NXB Thanh Niên, 2004

[4] “Giap ou la guerre du peuple”, NXB Denoël, Paris, 1973.