Showing posts with label nông thôn Việt Nam. Show all posts
Showing posts with label nông thôn Việt Nam. Show all posts

Tuesday, 19 June 2012

Làm báo thời thổ tả

- Liệu bài có được đăng không? 

- Không biết… nhưng hy vọng là ổn. Anh TBT đã bảo là "có gì sẽ trao đổi với phóng viên trực tiếp trong ngày hôm nay”. Tinh thần chỉ là sửa bớt những chỗ quá cụ thể, còn thì sẽ đăng và phải đăng. 

- Ái chà chà. Thế cơ à? 

- Vì ảnh bảo, có những lúc, nếu chúng ta không nói, sẽ là có tội. Sau này về già, còn mặt mũi nào nhìn con cháu mà chém gió: “Ngày xưa ông làm báo thế đấy!”. 

- Quá chuẩn! Thế mới là TBT chứ! Sao anh tổng nhà tôi không được như thế? 

- Há há, lêu lêu… 

- Sướng nhỉ? Đang nghĩ là nếu bài được đăng, bà con bên Văn Giang sẽ mừng lắm đây. Nhớ mua lấy mấy chục tờ mang về biếu bà con. 

- Ấy, đừng vội mừng sớm... Nói thế chứ vẫn lo lắm. Đã đăng đâu, mới là “sẽ đăng” thôi. Mà đưa một bài lên, bị thổi còi ngay chẳng hạn, là xong… 

* 

Ngày xưa ông làm báo thế đấy!”. 

Mô típ “chúng ta nói gì với con cháu chúng ta” hẳn là đã được sử dụng nhiều trong văn học, sách báo, phim ảnh. Như nhà văn Phan Tứ (1930-1995) viết trong tiểu thuyết nổi tiếng “Mẫn và tôi” về tình yêu thời chiến tranh: “Bầy cháu nội ngoại sẽ nghe tôi kể: “Ông gặp bà giữa hồi núi sụp rầm rầm, nước dâng như chưa hề ghi trong sử sách…”. Chúng cười khì, tưởng tôi mượn chuyện thời vua Hùng. (…) Đành vậy, lớn lên chúng sẽ biết, sẽ nhớ. Tôi phải giúp chúng nhớ. Đừng để những bông hoa mai sau tự rứt mình ra khỏi cây vì không muốn dính dáng với bầy rễ cắm vào bùn”. 

Đánh Chu Lai, chắc Mẫn lại kẹp cácbin đưa các anh đặc công lội trắng đêm trên cát và đời nào em tôi chịu vắng bóng trong đợt pháo hoa cuối cùng. Tôi chia lửa cho Mẫn là phải, riêng tây gì đâu. Phải không em, Mẫn, dù anh đi khắp chân trời góc biển, mỗi lần ra trận chúng mình lại gặp nhau; có phải lúc này em đang quấn quít bên anh, em gần đến nỗi anh chỉ đẩy ngón tay đặt nên tim là nghe ngay tiếng người thương rủ rỉ trong tai, kể rằng quê ta thắng Mỹ rất ngon, và hai đứa mình là bông bạc vẫy hai ngón giữa dòng?”. 

Nghe nhà văn viết những dòng thủ thỉ, thấy tình yêu của hai nhân vật chính – Mẫn và Thiêm – sao mà đẹp đến lý tưởng. Đúng là cuốn tiểu thuyết “một thời khuấy động hàng triệu con tim”, cũng chẳng khác gì “những nhạc phẩm lừng danh của Trịnh Công Sơn”, “đầy phẫn nộ, khát khao cho một niềm hy vọng chung của cả dân tộc”… (*) 

Lũ nhà báo bây giờ sau này kể lại cho con cháu nghe chuyện làm báo của mình thời nay, sợ rằng không được đẹp như thế. Nó thảm hại hơn nhiều, lố bịch hơn nhiều, hèn nhát hơn nhiều… 

* 

Nó là câu chuyện của những nhà báo hễ xuất hiện ở điểm nóng nào là chỉ đi cùng “lực lượng chức năng”, áo nhiều túi, máy ảnh trước ngực, vẻ mặt nghiêm trọng. Cũng là câu chuyện của những phóng viên về Văn Giang lúc xế chiều để chứng kiến một cánh đồng tung tóe, cây cối đổ nát nghiêng ngửa. Dân quê thấy người lạ vào, chẳng ai buồn ngẩng lên, vẫn cắm cúi đào bới, nhặt nhạnh, xúc, đổ đất… Nhưng đến khi thấy “người lạ” lúi húi lấy máy ghi âm, sổ và bút ra, thì họ vây lấy, thẫn thờ: “Sao đến giờ nhà báo mới về? Mất rồi. Mất hết rồi!”. 

Rồi họ nhất định kéo nhà báo vào nhà, để họ pha trà, mời nước, và nghe họ kể lể chuyện “mất hết rồi”. Hàng xóm lục tục kéo đến, người nào cũng phải xán lại, nhìn, chạm tay vào áo khách một cái, khẩn khoản: “Nếu nhà báo giúp được chúng tôi đòi lại được đất, thì chúng tôi mang ơn nhà báo suốt đời”. Màn đêm buông xuống, trai tráng trong làng rầm rập đưa xe máy hộ tống nhà báo về. Người dân nông thôn bao giờ cũng là vậy, họ có thể khôn ngoan hay thực dụng, nhưng vẫn có cái hồn hậu chất phác – nên không để ý thấy nhà báo đang cúi gằm mặt, lủi thủi rời khỏi hiện trường. 

Và từ ấy, ngày nào họ cũng ngong ngóng ra bưu điện huyện, chờ xem có báo nào đưa tin, viết bài “về xã mình” không. Những mảnh báo hiếm hoi nhắc đến vụ việc của làng họ được photocopy ra hàng chục bản, và truyền tay nhau nhiều quá, đã nát ra rồi… 

 * 

Họ không nhìn thấy cảnh nhà báo phóng xe máy rời làng, đầu cúi gằm. Họ cũng không biết đến chuyện, có những lần, nhà báo về làng khi trời vẫn còn chưa tối. Trên đường đi, dưới ánh hoàng hôn, cây lá trong vùng vẫn xanh biếc như thế, triền đê vẫn mườn mượt cỏ, gió vẫn lồng lộng, và nhà báo dở hơi bỗng nghĩ tới lời thề của danh tướng Trần Quốc Tuấn thời xưa: “Trận này không phá xong giặc Nguyên, quyết không về bến sông này nữa”. Thì chúng cháu cũng vậy, Hưng Đạo Đại Vương ơi! Chúng cháu cũng muốn đứng trên đê, nhìn xuống cánh đồng xanh mượt mà thề: “Chuyến này không đăng được bài, quyết không về chốn này nữa”. Nhưng nói vậy thôi, chúng cháu sao dám gở miệng như thế - vì chúng cháu hiểu, sẽ còn nhiều, rất nhiều những vụ cưỡng chế đất đai, những bạo lực, đổ máu, hận thù, bất mãn… mà nếu còn nghĩ tới chuyện làm báo thì còn phải chứng kiến, và viết. Không ở đây thì cũng ở nơi khác mà thôi. 

Những người dân quê chất phác. Họ chẳng biết gì tới sự căng thẳng của ban biên tập, nỗi dằn vặt của phóng viên. Họ cũng chẳng biết đến Internet, cùng những cuộc cãi vã xô xát trên đó, bảo rằng họ tham lam, đã nhận tiền rồi nay thấy ít nên lại đòi tăng, rằng họ bất mãn nên bị bọn phản động lợi dụng, rằng cưỡng chế đất đai là việc không thể tránh khỏi trên con đường phát triển của Việt Nam (chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tóm lại là “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”). 

Họ càng không biết tới Hiến pháp, tới bài toán phát triển kinh tế của đất nước – toàn những thứ vĩ mô đến thế. Họ chỉ biết vào cái buổi sáng hôm ấy, hàng chục xe cam nhông, xe tải chở lính, đã “bò như cua” vào thôn làng họ, và họ bị xô đẩy, dồn ra ngoài cái mảnh đất cho đến rạng sáng vẫn còn là của họ trong tiếng loa oang oang nhắc nhở: “Không phận sự miễn vào”. Không chống lại được thì họ cự lại, phản ứng, họ chửi, khóc, ngồi bệt, rồi lăn cả ra đấy, uất ức như những đứa trẻ bị cướp đồ ăn. 

Lúc ấy, ai còn dám lý luận với họ về những vấn đề cao siêu, ví dụ, về sự cần thiết phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất? 

Nhưng nếu đặt câu hỏi ngược lại, rằng giả sử cuộc cưỡng chế diễn ra căng thẳng và khốc liệt, rồi một nhân viên công vụ bị đánh trọng thương, máu me be bét, lực lượng cưỡng chế buộc phải rút lui trong thất bại, thì có ai vui mừng hả hê với chiến thắng của “phe nhân dân” không? Câu trả lời, với những người làm báo nghiêm túc, sẽ là không. Đơn giản bởi vì người ta ai cũng xương cũng thịt. Ai cũng là tinh cha huyết mẹ mà thành. 

Báo chí không thể ủng hộ, cổ vũ bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào. Một điều mà các nhân viên an ninh “ít chữ” rất hay muốn làm rõ là “Anh/chị viết bài vì động cơ gì?”. Họ không hiểu rằng với nhà báo, sự thật là tối thượng, và nếu có thể gọi đấy là “động cơ”, thì nhà báo chỉ có động cơ duy nhất là phản ánh sự thật. Đôi khi, một nhà báo viết hết, phản ánh hết – đúng 100% - những gì một bên đưa ra (ý kiến, bằng chứng…), mà vẫn là không chấp nhận được. Bởi vì như vậy là không đủ khách quan, công bằng: Mọi bên đều phải có cơ hội thể hiện quan điểm như nhau. 

Nếu dân sai thì ngay cả có bị dí súng vào đầu bắt viết “vu vạ” cho công an, người làm báo cũng không viết. (Ở đây, phải giới hạn là không phải tất cả các nhà báo đều như nhau, ngoài ra, nhiều khi họ không viết xấu về chính quyền không phải vì tôn trọng sự thật khách quan, mà là vì không đủ bằng chứng, hoặc vì sợ bị trừng trị). Ngược lại, nếu chính quyền sai thì dù có cố đến đâu cũng khó lòng bênh nổi. 

Ai đó đã nói về “chiến dịch” đưa tin của báo chí trong và sau các vụ Tiên Lãng, Văn Giang như sau: “Một cuộc vật lộn để được nói sự thật”. Thực tế còn hơn thế nữa: Một cuộc vật lộn để được biết sự thật, để được viết sự thật, và để được khách quan (tất nhiên cũng chỉ dám mong ở mức độ tương đối). Thế mà, cho đến giờ, cái đích ấy vẫn chưa đạt được. 


37 năm sau ngày thống nhất đất nước. Hơn nửa thế kỷ sau cải cách ruộng đất. 67 năm sau ngày thành lập nước. Sáu thế kỷ sau thời kỳ tích lũy tư bản nguyên thủy ở phương Tây. Bước vào thời đại toàn cầu hóa, hội nhập, ở Việt Nam, vẫn còn diễn ra những cuộc cưỡng chế đất đai nhốn nháo, tiếng la hét chửi bới của dân lẫn trong khói hơi cay và tiếng oàng oàng chói tai của “quả nổ nghiệp vụ”. 

Tệ hơn nữa là chuyện ấy lại diễn ra cùng với đây đó những mệnh lệnh (miệng) yêu cầu báo chí “hạn chế đưa tin”, và những cuộc tranh cãi ầm ĩ, đầy ngụy biện, trên mạng, về quan tham, dân gian và bọn báo chí lề phải, blogger lề trái ngu dốt, phản động. 

“Ngày xưa ông làm báo thế đấy”. 

Ghi chú: 

(*) Lời giới thiệu album “Sơn Ca 7” của Khánh Ly. 

http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3429


Saturday, 12 May 2012

Vì sao người dân quyết liệt bám giữ đất?

Ngay chiều 24-4, đại diện chính quyền huyện Văn Giang đã thông báo với báo chí là việc cưỡng chế thu hồi đất và hỗ trợ thi công dự án ở xã Xuân Quan đã hoàn tất, chính quyền địa phương đã bàn giao mặt bằng 72 ha ở đây cho chủ đầu tư. Tuy nhiên, đối với chính quyền và những người dân liên quan, sự việc dường như chưa khép lại. Còn nhiều vấn đề phải giải quyết sau cưỡng chế.

Sống nhờ đất, khá giả nhờ đất

Đêm 23 và ngày 24-4 vừa qua có lẽ sẽ trở thành một ký ức khó quên được đối với nhiều người dân ở xã Xuân Quan. Họ đã phải bấm bụng để bị thu mất phần đất canh tác ít ỏi - nguồn sống duy nhất suốt bao nhiêu năm qua của gia đình mình.

Buổi chiều sau cưỡng chế, trỏ tay ra bãi đất trước mặt còn tanh bành những cây bật gốc, đổ rạp, mẹ vợ anh Truyền (xóm 3, xã Xuân Quan) chép miệng: “Cây cối nhà tôi đây. Chỗ cây cảnh này tới gần tết trị giá phải cả tỉ đồng. Vợ chồng nó (anh Truyền) đêm qua tranh thủ dời đi được ba xe, còn lại coi như mất sạch!...”.

Anh Truyền bần thần, không nói năng gì. Mãi tới lúc nghỉ tay dọn dẹp, vào nhà uống chén nước, anh mới nghèn nghẹn: “Thế là mất hết. Nhà tôi hai bên nội ngoại mất khoảng 5-6 sào”.

Sau vụ cưỡng chế đất vừa qua, nhiều nhà cứ tiếc cho số cây cảnh bị cày ủi, hư hại. “Con nhà bà Nghiêm hôm qua khóc, kêu là mất nhiều hải đường quá, phải tới mấy trăm triệu đồng”. “Anh Thơm bên kia mất tầm trên 200 triệu đồng, toàn cây cảnh giá trị”. “Cả cái vườn lộc vừng 1.000 gốc, mỗi gốc mấy trăm ngàn đồng”…

Nhưng đó là thiệt hại trước mắt. Còn về lâu dài, chuyện người dân mất đất canh tác mới là nỗi lo lớn.

Theo nhiều lão nông, ba xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao (Văn Giang) là đất thuần nông với hơn 3.900 hộ nông dân sống nhờ vào đất. Vùng này từ xưa đã có tiếng là đất “bờ xôi ruộng mật”. Với chủ trương dồn điền đổi thửa của Nhà nước, người dân ở đây đã chuyển đổi thành công từ thóc lúa sang vườn cây, ao cá. Dịp giáp tết, lộc vừng, quất, hải đường Văn Giang sáng rực các chợ hoa Hà Nội. Một lão nông kể: “Người thì trồng cây cảnh, cây thế, người thì cây bóng mát, cây công trình. Đi khắp cái làng Xuân Quan này mới thấy sao nhà gác, nhà tầng nhiều, đầy đủ tiện nghi thế, có gia đình vài ba xe máy. Đó là người ta đi lên từ đồng ruộng. Trung bình mỗi sào ở đây ít cũng phải mang lại cho dân dăm bảy chục triệu mỗi năm”.

Mất đất vì dự án

Theo báo cáo của UBND tỉnh Hưng Yên, dự án khu đô thị Văn Giang (còn được gọi là Ecopark) được thực hiện theo phương thức “đổi đất lấy hạ tầng”. Chủ đầu tư (Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Việt Hưng - Vihajico) sẽ thi công một con đường giao thông liên tỉnh, dài 17 km, nối từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên. Bù lại tỉnh sẽ góp vốn bằng 500 ha đất nông nghiệp để Vihajico đầu tư xây dựng một khu đô thị sinh thái, có chức năng thương mại, dịch vụ và nhà ở.

Vihajico thuyết trình: “Nếu dự án được thực hiện, cơ cấu sản xuất của các xã Cửu Cao, Xuân Quan, Phụng Công từ sản xuất nông nghiệp sẽ chuyển sang đô thị thương mại, dịch vụ. Dự án là tiền đề tạo ra thế mạnh sử dụng có hiệu quả quỹ đất hiện có, tạo ra động lực phát triển toàn diện về kinh tế-xã hội, thương mại, vui chơi giải trí…”.

Chính quyền và chủ đầu tư dự án có thừa luận cứ để thuyết minh về tính hợp lý và sự cần thiết khi biến 500 ha đất nông nghiệp thành khu đô thị, thương mại, dịch vụ. Thế nhưng đối với người dân có truyền thống làm nông lâu đời, việc tách họ khỏi mảnh ruộng, vườn cây, ao cá gắn bó lâu đời với họ, là nguồn sống bao đời nay của gia đình họ là điều không đơn giản. Thực tế, chủ đầu tư và chính quyền hầu như chưa có động thái cụ thể nào chuẩn bị cho việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở đây. Lẽ ra chính quyền phải có phương án dạy nghề, đào tạo nghề để giúp người dân chuyển đổi từ lâu, chứ không phải đùng một cái lấy đất của người dân với lời giải thích sẽ chuyển sang làm thương mại, dịch vụ...

Họ sẽ sống bằng gì? 

Điều đáng ngại hiện nay là sau cưỡng chế, nhiều hộ dân ở xã Xuân Quan đã không còn đất canh tác và hoàn toàn không có phương án nghề phụ thay thế. Thông tin từ chính quyền cho rằng “số hộ bị cưỡng chế vẫn còn diện tích đất canh tác chứ không phải thu hồi toàn bộ” nhưng có thông tin khẳng định với PV, qua đợt cưỡng chế hôm 24-4 vừa qua, không ai còn ruộng nữa. Cũng thông tin từ chính quyền cho biết dự án “có đất dịch vụ liền kề để giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi” nhưng cụ thể ra sao không ai rõ.

Ông Dũng, người xã Xuân Quan, than thở: “Xuân Quan có 8.000 nhân khẩu, tôi cứ cho là người già yếu chiếm 4.000 thì 4.000 còn lại làm cái gì ra tiền bây giờ? Nói thực là bây giờ dân làng chơi nhiều rồi. Ban ngày người đi lại trên đường làng đông nghịt đấy. Có việc gì mà làm đâu”.

Trước mắt, đã có những gia đình phải đi mò cua bắt ốc, nhặt nhạnh cho đủ tiền mua gạo. Trong tương lai, sẽ ra sao nếu hàng ngàn người trong độ tuổi lao động phải chơi suốt ngày?


Sunday, 4 March 2012

Đọc truyện đêm khuya: Đất đai, nông dân và nông thôn Việt Nam


Đây là một phần Chương II, Selling the Fields (“Bán ruộng”) trong cuốn sách “Vietnam – Rising Dragon” (Việt Nam – con rồng trỗi dậy) của Bill Hayton, nguyên phóng viên BBC tại Hà Nội giai đoạn 2006-2007. Trong bối cảnh vụ Tiên Lãng báo hiệu nhiều xáo trộn, tôi nghĩ sẽ là một việc có ích, ít nhất cũng là điều thú vị, nếu chúng ta tham khảo những gì một nhà báo phương Tây từng viết về nông thôn Việt Nam cách đây vài năm. 


Tiêu đề của phần này do người dịch đặt. Quan điểm của người dịch không nhất thiết trùng quan điểm của tác giả. Người dịch không chịu trách nhiệm về việc kiểm chứng thông tin trong bài viết. Một nhân vật được nhắc tới trong đoạn dưới đây – ông Vũ Ngọc Kỳ, nguyên Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam – đã mất năm 2008. 
 
* * *

Mồng 10 tháng giêng năm 2007, trước ngày Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tran Thi Phu cào đất trên thửa ruộng của mình ở tỉnh Hà Tây và chở đất đi bằng xe cải tiến. Dưới bầu trời mùa đông buồn tẻ, chị và người em họ dùng cuốc cạo hết lớp đất ở trên, đổ vào những chiếc bao tải cũ đựng phân bón và kéo bao tải lên xe. Tiếp theo, hai chị em sẽ đẩy xe vào làng, Hoài Đức, cách đó vài trăm mét, để bán đất ấy cho một người hàng xóm đang muốn phát triển vườn cây ăn quả. Khắp cánh đồng sau lưng họ là một dọc những cọc gỗ thấp dùng để đánh dấu. Chỉ trong vòng vài tuần nữa thôi, chúng sẽ đánh dấu cái ranh giới giữa tương lai và quá khứ. Mọi thứ ở bên trái họ rồi sẽ trở thành một phần trong một dự án bất động sản tư nhân, còn bên phải họ thì những phụ nữ chân đất vẫn sẽ tiếp tục trồng cấy lúa bằng tay không. Mới hôm trước đó, chị Phu được thông báo là chị sẽ nhận được khoản đền bù bằng mức thu nhập của khoảng 5 năm làm nông dân trên thửa ruộng của chị. Nhưng thông tin đó không làm chị vui. “Tôi chẳng biết dùng tiền ấy làm gì cả” – chị nói. “Có lẽ tôi sẽ đầu tư vào cái gì đó, nhưng cũng chưa biết là vào đâu. Tôi là nông dân, tôi chỉ biết trồng lúa và nuôi gà nuôi lợn thôi. Tôi không biết kinh doanh, không biết mua bán gì cả. Tôi muốn nhà nước xây một nhà máy lớn ở đây để rồi chúng tôi đi làm công nhân, như thế tốt hơn là bồi thường bằng tiền hay căn hộ”.

Phía bên phải hàng cọc, cuộc sống vẫn tiếp tục như thường. Mặc dù phải cưỡi trâu dầm trong làn nước giá lạnh của mùa đông, nhưng một nông dân khác, chị Nguyen Thi Hang, lại tỏ ra còn hơn cả hài lòng với số phận của mình. Chị cho là đời sống đang tốt đẹp hơn bao giờ hết. “Cách đây 5 năm, tôi phải mất gần cả ngày để đẩy xe đạp từ chợ ở Hà Nội về nhà, chở rau cỏ cho trâu bò lợn. Bây giờ thì tôi có thể ra Hà Nội và quay về trong vòng hai tiếng đồng hồ, nếu được ông xã đèo bằng xe máy”. Chị là một điển hình của nông dân hiện đại. “Trước kia phải mất sáu tháng để nuôi một con lợn ta lên được 60 cân, còn giờ tôi có thể vỗ béo một con lợn giống Tây lên 60 cân chỉ trong hai tháng”. Câu chuyện thành công của chị còn lặp lại ở nhiều nơi trên khắp đất nước; thật là tin xấu đối với giống lợn sề của Việt Nam – đám lợn này gần như đã tuyệt chủng ở quê hương của chúng – nhưng là một tiến bộ mang tính cách mạng đối với hàng triệu nông dân Việt Nam. Vợ chồng chị Hang vẫn tiếp tục làm ruộng, nhưng con cái của họ thì không còn ý định sống cả đời trong cảnh lưng còng, tay đầy bùn nữa. Ngày ngày chúng đi xe máy về Hà Nội, con trai đi làm cho một công ty máy tính, con gái làm cho một cửa hàng bán quần áo. 5 năm về trước, chúng còn sung sướng được cưỡi xe Honda Dream sản xuất ở Trung Quốc. Bây giờ, chúng không dại gì chết tắc với loại xe dành cho ông già đó. Đồ chúng mua sắm, dù là xe máy hay điện thoại di động, đều phải nhằm mục đích phô trương.

Nhưng với tất cả những thứ đó, gia đình cũng sẽ không bỏ đất. Đất vẫn là chiếc mỏ neo của họ. Chính vì mất chiếc mỏ neo đó mà chỉ cách đó 100 mét, chị Tran Thi Phu đang than thở kia. Đối với cả hai người phụ nữ này, mà thật ra là đối với bất kỳ nông dân trên 30 tuổi nào, nạn đói vẫn cứ là một ký ức sống động. Vào đầu những năm 1980, sự kết hợp giữa các nguyên nhân chiến tranh, cấm vận, và chủ nghĩa xã hội nhà nước giáo điều, đã gây thiếu lương thực trầm trọng và dẫn đến nạn đói. Di chứng của cái thời ấy vẫn còn in đậm trên cơ thể của tất cả những người Việt Nam lớn lên trong tình trạng thiếu dinh dưỡng. Nỗi sợ một chuyện tương tự như thế có thể lại xảy ra khiến nông dân bám chặt lấy đất: họ có niềm tin rằng điện thoại di động có ngừng kêu thì họ vẫn còn có thể tự trồng lúa và sống được. Mất đất là đâm đầu vào cảnh mất ổn định.

Hai người phụ nữ – Nguyen Thi Hang và Tran Thi Phu – là những bằng chứng sống về quá trình chuyển đổi ở Việt Nam. Đời sống hiện nay khá hơn cực nhiều so với 20 năm về trước. Hầu hết những thăng trầm khi xưa của đời sống nông dân đã được khắc phục. Tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm, bệnh truyền nhiễm được kiểm soát, tuổi thọ kéo dài hơn. Đất đai được phân bổ rộng rãi và nông dân đã có quyền trồng cây gì họ muốn và đem bán, trên lý thuyết là cho bất kỳ ai họ muốn. Kết quả thật ấn tượng. Trong không đầy ba thập kỷ, số người nghèo giảm hẳn, nông thôn đã có điện; đường xá, trạm y tế, trường học và hệ thống vệ sinh đều được xây dựng. Nhưng vẫn còn cần nhiều thời gian để vượt qua những gánh nặng của quá khứ. Cuộc sống của người nông dân vẫn còn khó khăn.

Khi nền kinh tế tiến hành công nghiệp hóa, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm còn một nửa – từ 40% vào giữa thập niên 1980 xuống 20% ngày nay. Nhưng số nông dân giảm chậm hơn thế nhiều – từ ba phần tư dân số trong thập kỷ 80 xuống còn khoảng một nửa dân số như bây giờ. Nói cách khác, nông dân đang nhận một tỷ lệ thấp hơn lợi ích của tăng trưởng trong một số người rộng lớn hơn. Họ đã giàu lên, nhưng mức độ ít rõ rệt hơn so với những người lao động ngoài khu vực nông nghiệp. Tuy có một số nông dân khá giả, nhưng phần còn lại đang phải vật lộn để xoay sở, và họ có thêm một loạt vấn đề phải đối mặt. Gió độc vẫn thổi qua những cánh đồng lúa, dưới hình thức những vụ cưỡng chế đất đai, quan chức địa phương cướp bóc của dân, và sự biến động của thị trường toàn cầu. Các ảnh hưởng đều sẽ rất nguy hiểm cho tương lai của đất nước, bởi lẽ nông thôn hiện giờ vẫn là nơi an cư đối với phần lớn người Việt – khoảng 70% – mặc dù, như hai phụ nữ nói trên đã chỉ ra, ở nhiều nơi, “nông thôn” tồn tại trong định nghĩa và phân loại của chính quyền nhiều hơn là trên đất đai. Một thời gian rất dài sau khi dự án bất động sản ở Hoài Đức hoàn thành, khu vực này chắc chắn vẫn sẽ được gọi là “nông thôn”.

Tổ chức có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của nông dân đóng trụ sở ở một trong số rất nhiều biệt thự quét vôi vàng trong “khu Đảng” nằm dọc đường Quán Thánh (Hà Nội). Phòng họp của họ có cái công thức thường xuyên của mọi cơ quan nhà nước: rèm nhung đỏ, tượng bán thân bằng đồng của ông Hồ Chí Minh, và một khẩu hiệu lớn mạ vàng khẳng định rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Hội Nông dân là một trong những “tổ chức quần chúng” chủ lực của Đảng. Vai trò của nó là làm “sợi dây nối” giữa nông dân và Đảng – nhưng cũng là hướng dẫn nông dân về chính sách của Đảng. Lãnh đạo Hội năm 2007, ông Vũ Ngọc Kỳ, giữ một nhiệm vụ khó tới mức đáng sợ, nhưng vẫn còn dành thời gian rảnh rỗi để sáng tác và xuất bản thơ. Hôm tôi gặp ông, ông vừa hoàn thành một tập thơ nữa – thơ ca ngợi các thành viên của Hội. Trong đó, ông kêu gọi nông dân hãy làm giàu cho đất nước để đất nước bắt kịp với phần còn lại của thế giới. “Mùa xuân đến đem theo bao hy vọng, hoa hồng tươi và chúng ta lại tiến tới ngày mai…”, có một câu thơ như vậy. Nhưng ông cũng rất ý thức được rằng đối với những người nông dân đang chật vật tồn tại, mùa xuân mang đến điềm gở hơn là vận hội. Liệu còn đủ cái ăn cho tới mùa gặt không? Làm sao xoay sở được?

Không như các lãnh đạo nông dân ở nhiều nước khác, ông Kỳ không coi công việc của mình là phải bảo vệ quyền của các thành viên trong hội – quyền được ở trên đất của họ. Ông tỏ ra rất thẳng thắn khi nói về những việc cần làm. “Hiện tại chúng tôi có 32 triệu người lao động ở nông thôn, và có thể nói rằng khoảng 10 triệu trong số họ ở trong tình trạng bán thất nghiệp”. Giải pháp của ông không phải là yêu cầu nhà nước trợ cấp nhiều hơn cho nông dân để duy trì cuộc sống của họ. Đảng đã quyết định công nghiệp hóa đất nước, một số lượng lớn nông dân phải rời đất, và với tư cách chủ tịch Hội Nông dân, ông sẽ phải làm sao để bảo đảm việc đó. Ông Kỳ dự đoán là trong những năm tới, một phần ba số nông dân cả nước sẽ thất nghiệp, như là kết quả của hiện đại hóa nông nghiệp và cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. “Do đó, việc quan trọng nhất bây giờ là phải đào tạo để họ có kỹ năng tốt hơn, đáp ứng được yêu cầu của các ngành dịch vụ” – ông bảo vậy. Nói cách khác, nông dân cần được đào tạo lại để trở thành bồi bàn hoặc lái xe. Hội Nông dân đã hoàn toàn dựa vào (lý thuyết) phân chia giai cấp để đào tạo những kỹ năng mà họ nghĩ là sẽ cần thiết trong nền kinh tế mới.

Đoan Trang dịch từ nguyên bản tiếng Anh



Kỳ trước: