Showing posts with label nghề báo. Show all posts
Showing posts with label nghề báo. Show all posts

Friday, 16 December 2011

Giọt nước mắt của lề phải

Trong suy nghĩ của nhiều người ngoài ngành, qua phản ánh của phim ảnh, nghề báo đẹp như được phủ một lớp hào quang.

Nhà báo được tiếp xúc với số lượng người cực lớn, trong đó có nhiều quan chức cao cấp, văn nghệ sĩ nổi tiếng. Nhà báo có thể “dồn” một ông cốp tới lúc phải đắng họng, có thể vạch trần những âm mưu xấu xa, có thể bá vai bá cổ một nhà văn chụp ảnh, hay ôm hoa đứng bên các nghệ sĩ. Nhà báo có xu hướng là người quảng giao, rất hiểu biết, nói chuyện hay ho, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, giữa biết đủ ngóc ngách của xã hội. Nhà báo có xu hướng thông minh, hài hước, dũng cảm, biết chụp ảnh. Nghề báo là nghề đầy vinh quang và có cả sự phiêu lưu mạo hiểm…

Đó là suy nghĩ của nhiều người ngoài ngành về nghề báo và nhà báo. Tất nhiên, không phải 100% ý kiến đánh giá đều như vậy. Ở thái cực kia, người ta lại nghĩ nhà báo Việt Nam là cái lũ đầu rỗng, nỏ mồm chém gió và nói phét, đã thế lại đểu, chỉ giỏi vặt tiền doanh nghiệp, nói tục chửi bậy kinh khiếp mà viết lách thì không bài nào sạch lỗi.

Người ta cũng có thể nghĩ nhà báo Việt Nam là một lũ cừu, cứ sểnh ra là viết sai, viết láo, viết không có lợi cho tình hình chung, làm phương hại tới quan hệ giữa Việt Nam và một quốc gia nào đó.

Người ta còn nghĩ nhà báo Việt Nam là một bọn bồi bút, bọn lưỡi gỗ tuyên truyền phản dân hại nước, ngậm miệng ăn tiền. Không đếm được có bao nhiêu lời mạt sát “lề phải” trên mạng: “não nhẵn”, “óc phẳng”, “hèn hạ”, “ngu xuẩn”, “vô lương tâm”…

Tuy nhiên, không thể tóm gọn diện mạo của cả làng báo Việt Nam trong một vài tính từ tích cực hay tiêu cực nào. Vì họ có tất cả những gương mặt ấy, khía cạnh ấy. Và dù thế nào đi nữa, trong đội ngũ các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa-tư tưởng (cách gọi khác của từ “đàn cừu”), vẫn luôn có những nhà báo lề phải ngày đêm lặng lẽ mang những gì tốt đẹp nhất mình có thể tìm được đến cho độc giả.

Tôi kính phục họ - những nhà báo trung thực, giấu sự phản kháng vào trong thầm lặng. Thật tiếc là, dẫu vô cùng muốn viết về họ, nhưng ngay cả lúc này, tôi vẫn cứ phải giấu tên các nhà báo ấy, để họ ở yên trong trận tuyến của họ - vì lẽ mọi lời nói ám chỉ đến họ đều có thể trở thành thông tin chỉ điểm.

“Nhưng chúng ta không thể bỏ mặc thế giới này…”

Họ trước hết là những người rất thông minh, sắc sảo. Và chúng ta đều hiểu là, một người có đầu óc thông minh, sắc sảo, biết xét đoán và biết phản biện, sẽ không bao giờ chấp nhận sự định hướng, lừa mị, bưng bít. Không thể che mắt họ bằng lối nhồi sọ của thế kỷ trước.

Họ cũng “phản động” chẳng kém bất kỳ nhà báo tự do, blogger lề trái nào. Nhưng trong hoàn cảnh của họ, họ không thể thoải mái viết bài phê phán, chỉ trích rồi đưa lên mạng tùy thích. Họ im lặng, cố gắng mang đến cho độc giả những thông tin tốt nhất có thể có được, thông qua một lối diễn đạt nhẹ nhàng nhất, và chỉ thầm ước mong: rồi độc giả sẽ hiểu.

Không có họ, ai là người đưa những thông tin đầu tiên về đại dự án bauxite 2009 ở Tây Nguyên ra công luận?

Không có họ, ai đưa những phát ngôn “đỉnh cao trí tuệ” trong chính trường Việt Nam lên mặt báo? Ai ghi lại những câu nói “bất hủ”, phản ánh trình độ (ít nhất là khả năng tư duy logic, khả năng diễn đạt) đáng báo động của một bộ phận không nhỏ quan chức nước nhà?

Không có họ, ai phản ánh về những vụ dân thường chết trong đồn công an một cách bí hiểm? Cho dù nhiều sự việc đau lòng như thế có thể chẳng đi về đâu, nhưng ít nhất, cũng nhờ có họ mà chuyện đã được đưa ra công luận.

Không có họ, ai viết về mãi lộ? về lũ lụt, tai nạn, tiền cứu trợ bị bớt xén hay hàng cứu trợ toàn bột giặt? về những tai nạn thảm khốc – cho thấy một xã hội đầy rủi ro, tỷ lệ tử chắc chắn là cao hơn mức 6/1.000 người dân/năm rất nhiều? về những bê bối trong trường học, bệnh viện? về một Vinashin vỡ nợ? Tất nhiên, việc báo chí viết về Vinashin hay các bê bối tương tự rất có thể chỉ là kết quả của những đấu đá nội bộ “trên thiên đình”, trong đó báo chí được sử dụng làm công cụ, vũ khí để bắn giết nhau, nhà báo chỉ là những con tốt mà thôi. Nhưng dù sao thì lũ tốt đen ấy cũng đã làm được công việc đưa một phần sự thật ra ánh sáng.

Cũng có những lúc lề trái và lề phải “phối hợp tác chiến” một cách rất hoàn hảo. Hình ảnh những người dân đi đầu trong đoàn biểu tình mùa hè năm 2011, giương cao tờ báo Thanh Niên với hàng chữ nổi bật trên trang nhất: “Không chủ trương trấn áp người biểu tình yêu nước”, có đủ nói lên sự ủng hộ ngấm ngầm của lề phải cho lề trái chăng? Tôi nhớ ở đâu đó, một độc giả bình luận: “Báo Thanh Niên đã góp sức để người dân thể hiện lòng yêu nước một cách an toàn – và quý báo cũng… an toàn!”.

Họ cũng ra đi. Ra đi nhiều lắm. Cứ sau mỗi vụ tờ báo nào đó bị xử lý, rất có thể là lại có hàng loạt người “bay”. Nhất là với cái thứ văn hóa đổ vấy của người Việt Nam, khi một loạt bài được “trên” biểu dương, thì lãnh đạo tòa báo hưởng, mà khi loạt bài bị “đánh” thì chỉ có thằng đánh máy, con sửa mo-rát là chết, mà lại là chết trong âm thầm, không ai hay biết.

Cũng nhiều người tự động bỏ đi, vì chán ngán, vì bế tắc. Một trong những người ấy đã gửi tôi một dòng tin nhắn mà không bao giờ tôi quên được: “Nhưng chúng ta không thể bỏ mặc thế giới này cho những kẻ mà ta khinh bỉ”. (1)

Vì nhân dân

Năm 2009, trong một bài về “Chuyện làm báo ở Sài Gòn trước 1975”, tôi đã viết: “… nghề báo thì bao giờ cũng vậy, là niềm vui, là nỗi buồn, là lòng nhiệt tình của tuổi trẻ và cả những giọt nước mắt”. Đó thực chất là điều tôi muốn nói về báo chí Việt Nam sau năm 1975. Tôi không biết trong cuộc chiến thầm lặng chống lại sự bưng bít, bóc trần cái xấu, thúc đẩy sự minh bạch, bao nhiêu nhà báo đã lau nước mắt.

Chiều 2/8/2011. Ngày ấy, ở Hà Nội diễn ra hai sự kiện: phiên xử phúc thẩm TS. Luật Cù Huy Hà Vũ và cuộc họp giao ban báo chí của Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, với nội dung thông báo kết quả điều tra vụ “đạp mặt người biểu tình”.

Cảm giác “lạnh người” khi nghe tin ấy: Bộ Công an tổ chức họp báo ngay tại Thành ủy Hà Nội (giữa trung tâm thủ đô) để thông báo kết quả điều tra, và trước đó, tin đồn ít nhiều rằng đã có những cuộc tiếp xúc, điều đình giữa công an và người biểu tình bị đạp mặt – anh Nguyễn Chí Đức. Chúng tôi đều hiểu rằng, không có lý gì mà công an tự tin đến thế. Chắc là sẽ có một diễn biến gì đó…

3 giờ chiều, từ ngoài đường, tôi gọi điện cho bạn (vừa ở cuộc họp báo ra):

- Tình hình sao rồi mày?

- Xong rồi. Họ bảo tay Đức chống đối, ngồi bệt xuống đất, nên công an phải khiêng lên xe đưa về đồn. Ông Đức cũng bảo không bị ai đánh, viết tường trình nói rõ thế rồi.

- Còn cái clip kia?

- Không xác định được có phải là giả không.

- Thế bây giờ mày định…?

- Thì về viết bài, có thế nào viết như thế chứ còn định gì. So what? (thế thì sao)

- So what cái cục cứt! – chưa bao giờ tôi thô lỗ như thế trên điện thoại di động. – Mày định thế nào? Mày muốn cứ thế mà tương vào bài à? Mày không hỏi Chí Đức lấy một câu à?

- Mày muốn gì? Có giỏi thì mày viết đi, viết xem có đăng được không?

Hai người chửi nhau một trận nảy lửa trên điện thoại.

- Đừng có vô lý thế. Mày phải hiểu là không thể khác được. Trong trường hợp này tao chỉ có thể làm hết sức mình là phản ánh lại đúng sự việc qua lời của công an, và sẽ ghi rõ là “theo kết luận điều tra”. Thông tin được chừng nào tới người đọc tốt chừng ấy. Mày viết theo kiểu đa chiều, lấy ý kiến Chí Đức, xem có đăng được không? Sao cáu kỉnh vô lý thế? Có phải lỗi của tao không?

Đến lượt tôi ngồi bệt xuống đất, tay run bắn lên vì giận. Phải, chính tôi mới là kẻ vô lý. Tại sao tôi lại gầm lên trên điện thoại, lại văng tục với bạn tôi – nhà báo mà tôi nể phục, quý trọng, nhà báo mà tôi vẫn thường yêu mến bảo: “Như John Lennon và Paul McCartney, hai ta song kiếm hợp bích”. Tại sao tôi lại nói bạn như thế, trong khi cả hai đều hiểu ai là những kẻ phải chịu trách nhiệm về tất cả chuyện này.

Bất cứ người làm báo chuyên nghiệp nào cũng hiểu quá rõ rằng, “trung thực, khách quan, công bằng” là các nguyên tắc đạo đức hàng đầu; và nếu ở một nền truyền thông đa chiều như phương Tây, thì sau khi dự một cuộc họp báo của cơ quan công an như thế, việc tiếp theo phóng viên phải làm là phỏng vấn “phía bên kia”, tức là nạn nhân Nguyễn Chí Đức, để xem anh có ý kiến như thế nào, có thực anh đã viết tường trình khẳng định mình không bị đạp mặt hay không.

Nhưng báo chí nước mình nó khác, khác ghê lắm. Mà chẳng riêng báo chí, nói chung là cái nước mình nó khác. Video clip ghi lại hình ảnh vụ đạp mặt không được thừa nhận một cách thản nhiên. Cuộc họp báo của cơ quan công an, tổ chức tại Thành ủy Hà Nội, không có mặt Nguyễn Chí Đức, cũng không mời bất cứ một ai trong số những người đã ký kiến nghị đề nghị xử lý nghiêm vụ đạp mặt công dân. Kết luận chỉ hàm ý đơn giản là Nguyễn Chí Đức ăn vạ. Hỡi ôi, cả một hệ thống xông vào vùi dập một công dân! Và chúng tôi đã chẳng thể làm gì để bảo vệ công dân ấy.

Nhưng bạn tôi nói đúng. Chúng tôi không làm khác được. Trong một nền báo chí được định hướng chặt chẽ, sát sao. Trong một nền truyền thông nơi “quyền bình luận” của nhà báo bị triệt tiêu sạch sẽ – đừng hỏi vì sao báo chí (lề phải) Việt Nam bao năm qua không có nổi một cây viết bình luận cho ra hồn; phóng viên, nhà báo đâu có cái quyền ấy; nó là quyền của lực lượng “chống âm mưu diễn biến hòa bình” kia. Trong một nền truyền thông nơi báo chí bị coi như công cụ, nhà báo không khác gì con chó, khi nào bảo sủa thì sủa, bảo im thì im. Thì người làm báo phải lựa chọn. Hoặc là im lặng để cố gắng đưa được thông tin tới bạn đọc chừng nào tốt chừng ấy. Hoặc ra đi.

Và trong cuộc chiến lặng thầm đưa thông tin tới bạn đọc, nhiều nhà báo chỉ còn biết gạt nước mắt, thở dài mỗi khi bị hiểu nhầm, bị nghe chửi (oan) là “lưỡi gỗ”, “chó lợn”, “ngu xuẩn”… Đôi khi, họ làm tôi nhớ đến một câu hát buồn:

“Many times I’ve been alone,
and many times I’ve cried.
Many ways you’ve never known,
but many ways I’ve tried…”
(2)

Ngước mắt nhìn trời…

Năm 2011 khép lại bằng một vài sự kiện, trong đó có chuyến về nước của GS. Trịnh Xuân Thuận, nhà vật lý thiên văn người Mỹ gốc Việt. Một trong những nhà báo thầm lặng mà tôi cũng rất yêu mến, khi tôi hỏi “có theo sự kiện này không”, đã trả lời: “Khi thất vọng với mặt đất thì là lúc nên nhìn lên trời”.

Dẫu là một câu nói đùa, nhưng nó đúng. Nhìn lên trời cũng là một cách để bớt ức chế với mặt đất. Nếu không ngước mắt nhìn trời, họ – những nhà báo vẫn cố gắng bám trụ với nghề, chấp nhận cay đắng, chấp nhận sự định hướng của một lực lượng mà năng lực truyền thông hẳn nhiên là thua xa họ – sẽ không chịu nổi bao nhiêu bụi bặm, rác rưởi.

Thôi thì chúng ta có thể hy vọng rằng, mọi việc được làm trên thế giới này đã được tiến hành bằng hy vọng.


Ghi chú:
1. Tiểu thuyết “Suối nguồn” (The Fountainhead, 1943) của Ayn Rand.
2. Ca khúc “Con đường dài và khúc khuỷu” (The Long and Winding Road, 1970) của “The Beatles”.
3. “Everything that is done in the world is done by hope” (Martin Luther).

Thursday, 27 October 2011

Giao ban với HTV

Ở các tòa soạn báo, hay có những cuộc họp định kỳ (hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày, thậm chí hàng buổi như ở Ban Thời sự - Đài Truyền hình), gọi là “giao ban”. Tại đó, ban biên tập, thư ký tòa soạn, những người phụ trách khối nội dung… hay nói chung là lãnh đạo, sẽ nhận xét những tin bài nổi bật trong tháng/tuần/ngày/buổi vừa qua, cho ý kiến đánh giá - chỉ đạo, nêu ra các lỗi nghiệp vụ, thưởng và phạt các phóng viên tương ứng.

Ðặt giả thiết, nếu người viết những dòng này là lãnh đạo (của Đài Truyền hình Hà Nội - HTV), tại cuộc họp giao ban sau bản tin thời sự tối 21/8 về “một nhóm người tụ tập biểu tình, gây rối”, tôi sẽ nhận xét “quân” của mình sao nhỉ?

Hình ảnh và lời bình khớp nhau như thế nào?

Trong phóng sự truyền hình, phim tài liệu, hình ảnh và lời bình phải gắn bó với nhau một cách hài hòa. Tốt nhất là “lời bình hơi vượt ra ngoài hình ảnh một chút”, tức là nói những điều hình ảnh không truyền tải/ minh họa hết được.

Có hai dạng lỗi lớn như sau:

- Hình ảnh và lời bình chồng chéo, trùng lặp. Ví dụ kinh điển là, sẽ không gì tẻ nhạt hơn khi trên khuôn hình hiện một cánh đồng lúa vàng, lời bình kèm theo: “Đồng lúa”; “Đây là cánh đồng lúa vàng”; “Các bạn đang ngắm một cánh đồng lúa vàng”…

- Hình ảnh và lời bình không khớp nhau, hình một đằng, lời một nẻo. Ví dụ thế này: Biên tập viên truyền hình (tạm gọi là “phóng viên” - PV) đưa tin về vụ chị N.T.H. chết vì giải phẫu nâng ngực ở cơ sở thẩm mỹ A. Khi phóng viên đến hiện trường, chủ cơ sở đã bỏ đi, nhà khóa cửa. PV bèn xử lý phóng sự như sau:

Hình ảnh: Toàn cảnh cơ sở thẩm mỹ A, nhìn từ bên ngoài. Hai cánh cửa sắt đóng kín, phía trên là tấm biển: “Thẩm mỹ viện A”. (Lời bình: “… Làm đẹp là nhu cầu chính đáng của người dân, đặc biệt là chị em phụ nữ…”).

Chuyển cảnh. Toàn cảnh: Quán cóc bên kia đường, đối diện cơ sở thẩm mỹ A. Một toán thanh niên ngồi uống trà đá, hút thuốc. (Lời bình nối tiếp câu trên:“… Ngày càng có nhiều người có nhu cầu làm đẹp…”).

Cách xử lý hình ảnh và lời bình như thế sẽ khiến khán giả mặc nhiên nghĩ rằng toán thanh niên ngồi trà đá trong quán nước kia là những người có nhu cầu làm đẹp.

Ví dụ khác: Phóng viên đưa tin Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ.

Hình ảnh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rảo bước cùng các cán bộ, vệ sĩ… trên sân bay, chuẩn bị lên máy bay. (Lời bình: “Cùng đi với Thủ tướng là đoàn các quan chức cao cấp của Đảng và Nhà nước. Trong chuyến đi này, Thủ tướng sẽ có cuộc gặp với…”).

Chuyển cảnh. Trung cảnh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đứng trước cửa máy bay, cười, vẫy tay chào những người ra tiễn đứng dưới đường băng. (Lời bình nối tiếp câu trên: “… (sẽ có cuộc gặp với) một số doanh nghiệp cá tra, cá basa của Mỹ, để bàn về…”).

Cách dựng hình này khiến khán giả mặc nhiên nghĩ rằng ê-kíp truyền hình coi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là một doanh nhân mua bán cá tra, cá basa, hoặc ít nhất cũng nhầm như thế.

*

Trở lại với phóng sự của HTV1:

Hình ảnh những người biểu tình, trong đó có một số người mà công luận đã biết mặt như Nguyễn Văn Phương (lúc đó là nhân viên công ty Việt Long), GS. Huệ Chi, TS. Nguyễn Văn Khải (“ông già ozone”), nhà văn Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Thạch (tác giả sáng kiến “Tủ sách dòng họ”)…

Lời bình của HTV1: “… Việc tham gia biểu tình lại trở thành tấm bia che chắn cho các thế lực thù địch phản động đằng sau đang ráo riết chia rẽ khối đại đoàn kết, kích động tư tưởng hằn thù dân tộc…”, “Lợi dụng vỏ bọc yêu nước, một nhóm người bị các thế lực phản động trong nước và nước ngoài kích động đã tụ tập biểu tình, hòng lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin không nắm bắt thông tin đầy đủ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, cản trở và chống đối lực lượng chức năng làm nhiệm vụ...”.

Tuyệt! Lời bình khớp với hình ảnh một cách không thể hài hòa hơn, để thể hiện chính xác ý đồ của (các) tác giả phóng sự – cho rằng tất cả những người xuất hiện trên hình đều hoặc là phản động đi lợi dụng kẻ khác, hoặc là người nhẹ dạ cả tin bị phản động lợi dụng.

Ở đây xin mở ngoặc đơn nói thêm: khi “Nhà đài” bị một số trí thức đâm đơn kiện, Tòa án Đống Đa xả thân bênh HTV, cho rằng: “Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội đưa tin về sự việc có hình ảnh các ông nhưng không nêu đích danh cụ thể ai, không xuyên tạc, cũng không có lời bình, nhận xét có nội dung vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm và gây thiệt hại đến cá nhân nào”.

Đến đây thì vấn đề nằm ở chỗ Tòa án phải xác định được những từ “tấm bia che chắn”, “thế lực thù địch phản động”, “ráo riết chia rẽ khối đại đoàn kết”, “kích động tư tưởng hằn thù dân tộc”, “lợi dụng vỏ bọc yêu nước”, “hòng lôi kéo”, “nhẹ dạ cả tin”, “không nắm bắt thông tin đầy đủ”, “gây ảnh hưởng xấu”… có phải là “xúc phạm danh dự, nhân phẩm” hay không.

Nếu câu trả lời là không thì chúng ta có thể yên tâm rằng phản động là yêu nước.

Cái nước mình nó khác!

Một trong những nguyên tắc của đạo đức nhà báo là trung thực và khách quan. Nếu một bài báo, một tác phẩm truyền hình đưa tin “phản ánh chính xác thực tế” mà chỉ nêu thực tế của một bên, thì vẫn sẽ là không trung thực, không khách quan.

Do đó, điều mà nhà báo nào cũng phải ý thức nằm lòng, là khi tác nghiệp, không được phép hùa vào theo ai đó, không được dùng từ ngữ gay gắt và ngoa ngoắt, không được ủng hộ lộ liễu một tổ chức nào, v.v… Nếu đưa tin cho rằng một nhóm người là “phản động” hoặc bị “phản động lợi dụng”, nhà báo bắt buộc phải lấy ý kiến của ít nhất một người trong số đó hay nói cách khác, phải để các bên có cơ hội lên tiếng bình đẳng.

Một nguyên tắc khác là: “Nếu sai, phải nhận!”. Nhà báo cũng như tờ báo phải có thái độ và cách hành xử đó. Đã sai là nhận trách nhiệm, nhận lỗi, và xin lỗi, bồi thường. Không có chuyện sử dụng uyển ngữ, nói tránh đi thành “nói lại cho rõ” chẳng hạn.

Ðương nhiên, đây là nguyên tắc đạo đức nhà báo theo chuẩn mực của Phương Tây và ở một phần đáng kể trên thế giới. Còn ở Việt Nam, có lẽ vẫn phải mượn ý nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến: Báo chí mình nó khác, khác ghê lắm!


http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3061



Friday, 27 May 2011

Vỡ trận

Hồi bé đọc Tam Quốc, mình rất nhớ đoạn này, nói theo ngôn ngữ trồng cải bây giờ thì là “Những giờ phút cuối cùng của Vân Trường”:

Quan Công đuổi đánh hơn hai chục dặm, lại nghe có tiếng reo, thì là Hàn Đương ở mé hang núi đổ ra, Chu Thái ở mé hữu kéo đến; Tưởng Khâm quay đánh ập lại. Quan Công vội rút lui. Đi chưa được vài dặm, thấy trên gò núi Nam Sơn, có một số người tụ ở đấy, khói bốc nghi ngút. Trên núi có lá cờ trắng bay phấp phới, đề bốn chữ: “Kinh Châu thổ nhân”. Họ gọi ơi ới: “Những người bản xứ, mau mau ra hàng đi”.

Quan Công giận lắm, muốn lên núi giết bọn ấy. Bỗng ở trong hang núi lại có hai toán quân của Đinh Phụng, Từ Thịnh đổ dậy đất, chiêng chống rầm trời, vây khốn Quan Công mà đánh, tướng sĩ thủ hạ dần dần tán hết. Đánh nhau mãi đến mờ mờ tối, Quan Công trông ra bốn phía núi, thấy toàn là quân Kinh Châu, người thì gọi anh tìm em, kẻ thì réo con gọi cha, tiếng kêu như ri, rủ nhau đi mất cả. Quan Công quát ngăn lại cũng không được.

Thấy đoạn này minh họa rõ cho cái ý “vỡ trận”. Mà hình như kinh tế, giáo dục, báo chí nước Nam ta giờ đang ầm ầm rơi vào thế ấy.

Bấy giờ báo chí đói lắm, nhiều tòa báo phải tung quân đi các nơi trồng cải, bắt doanh nghiệp làm thịt, mò cả vào làng showbiz thịt “sao”, có khi đói quá ăn thịt lẫn nhau. Người nào yếu, mắt mờ chân run không theo được, đành nằm nhà chờ chết hoặc kêu khóc đợi ứng cứu. Báo điện tử câu view điên cuồng, bọn quân sư nghĩ ra ngày càng nhiều tít bệnh hoạn, dân tình tuy vẫn vào đọc, nhưng thực bụng sợ lắm.

Báo sĩ nhiều người thấy tình hình trồng cải, làm thịt dân rối ren như thế, trong lòng không nỡ, muốn viết khác đi, nhưng phi cải ra, động cái gì cũng bị triều đình hạch tội. Số báo sĩ nao núng, muốn bẻ bút về quê làm ruộng ngày càng nhiều. Lắm kẻ sinh phẫn chí, tối ngày uống rượu rồi trông mặt về phía “Trung ương” mà khóc hu hu, tổng biên tập quát ngăn lại cũng không được. Tiếng kêu than vang trời dậy đất…

Vỡ trận rồi còn đâu? Nước Nam ta từ ngày có báo điện tử đã bao giờ suy đến thế này chăng, trời hỡi trời?

Monday, 28 March 2011

Lề phải, lề trái

Mai sau, một ngày nào đó, có ai viết về lịch sử báo chí Việt Nam đầu thế kỷ 21, rất nên nhắc tới một “trận chiến vô hình” giữa hai lực lượng báo chí quân xanh quân đỏ. Hai lực lượng này được gọi tên theo một phép ẩn dụ nổi tiếng, là Lề Trái và Lề Phải.

Gọi là “trận chiến” không biết có quá không, vì không có xô xát, xung đột, đổ máu gì, mà nhiều khi chứng kiến những diễn biến chiến sự giữa hai Lề thì đến Thượng đế cũng phải cười. Đơn cử ví dụ gần đây nhất và đang diễn ra là vụ án Cù Huy Hà Vũ chẳng hạn. Hai bên kịch chiến công nhận ác liệt.

MÀN 1: Ngày 5/11. Lề Phải đồng loạt nổ súng, bắn tin ông Cù Huy Hà Vũ bị bắt tại khách sạn Mạch Lâm (TP.HCM). Nguyên nhân ban đầu ngả về hướng ông Vũ “quan hệ bất chính với phụ nữ”, “có hành vi chống người thi hành công vụ”. Lề Trái lặng đi.

MÀN 2: Lề Trái phản đòn bằng một tràng đạn trên Bauxite Việt Nam, Dân Luận, RFI, VOA, RFA… Lề Trái đưa tin cả về phản ứng của những người thân, người quen của ông Vũ (Luật sư Dương Hà vợ ông Vũ gửi đơn tố cáo cơ quan an ninh, luật sư Hồ Lê Như Quỳnh khiếu nại việc bị Lề Phải vu khống, bôi nhọ danh dự...).

Lề Phải, trái lại, không nhắc một lời tới những diễn biến này. Nói chung là Lề Phải kiên quyết không làm diễn đàn cho bất cứ thế lực nào ngoại trừ *** (tự kiểm duyệt). Thay vì thế, Lề Phải mở một chiến dịch tổng tấn công vào “đối tượng” Cù Huy Hà Vũ. “Bài học cho những kẻ ngông cuồng và ảo tưởng”, “Cù Huy Hà Vũ là người như thế nào”… thảy đều đanh thép như dội B40 vào Lề Trái.

Lề Trái tiếp tục chống trả bằng các lập luận “rất chi là lề trái”, ví dụ bàn chuyện phân tích hồ sơ cáo trạng Cù Huy Hà Vũ, nhân quyền, hiến pháp, công pháp quốc tế này nọ. Lề Phải né, gạt ra. (Tạm) bỏ qua chuyện họ Cù “quan hệ bất chính với phụ nữ”, “chống đối người thi hành công vụ” được vài báo nêu lúc đầu, Lề Phải xoáy sâu vào các khía cạnh thuộc tư tưởng, nhân thân, đạo đức của Cù Huy Hà Vũ.

Hai bên ở trong thế trận cài răng lược cho tới sau Tết âm lịch – là khi Lề Phải vào mùa báo xuân. Tết nhất, nghỉ cái đã.

MÀN 3: Tết Tân Mão đã qua. Hai bên Lề lại tiếp tục trận chiến vô hình. Vừa hay lại đúng lúc bên Bắc Phi có biến: cách mạng hoa nhài bùng nổ. Lề Trái như được tiếp thêm sức mạnh. Càng gần tới phiên xử Cù Huy Hà Vũ (lúc đầu định là ngày 24/3, vừa được chuyển sang 4/4), Lề Trái càng đánh mạnh, đánh rát, đánh vỗ mặt: “Cù Huy Hà Vũ và mặt trận pháp lý - công lý”, “Chúng ta là Cù Huy Hà Vũ”, “Xin các vị hãy ghi điểm cho thành tích dân chủ hóa đất nước”, v.v.

Lề Phải nói chung không có nhiều chiến sĩ giỏi. Vài tay súng có vẻ khá nhất tập trung ở các đơn vị QĐND, ANTĐ, ANTG…, thì đẳng cấp và phong độ đều tầm thường như lính vét. Vậy nên, mất vài tháng trời, Lề Phải gần như bỏ ngỏ mặt trận cho Lề Trái tung hoành. Thỉnh thoảng, Lề Phải cũng nổ súng vu vơ, ví dụ đập hoặc nâng Bi ơi đừng sợ, hoặc mở một mặt trận nhỏ trên địa bàn văn hóa, cho các bên xả súng bắn vào nhau, nhân khi có một cô người mẫu giới thiệu bộ ảnh khỏa thân mới trên Internet.

Lề Phải im im vậy, tưởng chừng đã đuối thế, thì “choành” một phát như tiếng sét giữa trời quang. Ấy là bài viết “Bản chất những việc làm vừa qua của Cù Huy Hà Vũ”, tuy không đăng trên Lề Phải, nhưng các lập luận “rất chi là lề phải”.

MÀN 4: Sẽ diễn ra đâu đó xung quanh ngày xét xử vụ án Cù Huy Hà Vũ. Hiện tại, Lề Trái vẫn có vẻ giữ phong độ và khí thế áp đảo, nhưng cứ chờ đến ngày đó đi, cả một dàn trọng pháo của Lề Phải sẽ đồng loạt khạc lửa…


Mặt trận không tiếng súng

Cuộc chiến đấu giữa Lề Phải và Lề Trái này quả thật là một nét đặc trưng của báo chí Việt Nam thời Internet, mà trong tương lai, học giả nào nghiên cứu về lịch sử báo chí chớ nên bỏ qua. Suy cho cùng, đó là một cuộc nội chiến, mà phàm là nội chiến thì dễ vô nghĩa: Tại sao lại tồn tại khái niệm “Lề Phải, Lề Trái” trong báo chí? Báo chí đúng nghĩa chỉ có một Lề thôi, đó là sự thật. Sao tự nhiên lại nảy nòi ra hai cái Lề này trong làng truyền thông Việt Nam?

Nhưng thôi, ta hãy nhìn vào khía cạnh tích cực của vấn đề. Dẫu sao thì sự tồn tại của cả hai Lề đều có ích cho nhau ở một chừng mực nào đó. Rút kinh nghiệm từ những nhược điểm của Lề Phải, Lề Trái (nhìn chung) thường đảm bảo những việc sau đây:

• Dẫn nguồn tương đối cẩn thận. Có lẽ sợ bị kiện nên các chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm của Lề Trái thường đề nguồn (trích dẫn ý kiến, tư liệu, hình ảnh) chu đáo.

• Có lỗi, thường nhận luôn. Khoản này Lề Phải còn phải học Lề Trái dài dài. Blogger Người Buôn Gió từng “treo blog 15 ngày vì sai sót khi đưa tin”, Bauxite Việt Nam còn có “Lời cáo lỗi” vì nhầm lẫn, chứ đại nhà báo Kim Ngân của Lề Phải thì khán giả có bắc loa vào tận giường ngủ mà chửi, mặt nàng cũng vẫn bóng như thế. Đúng thôi, Lề Phải hùng hậu, mấy khi bị kiện, mà bị kiện cũng mấy khi thua đâu, trong khi Lề Trái làm sai, lơ mơ là tiêu tùng.

• Tôn trọng và tương tác với độc giả. Không phải luôn luôn, nhưng Lề Trái nói chung thường cho đăng tải ý kiến độc giả thuộc cả hai phe ủng hộ và phản đối. Chứ ngó vào Lề Phải xem, đố tìm được “comment” nào theo hướng bất lợi cho Lề Phải đấy!

Lề Trái nhiều khi còn là nơi cung cấp thông tin, tư liệu, ý tưởng, đề tài cho Lề Phải. Đang có cả một phong trào các chiến sĩ Lề Phải lê la trên diễn đàn của Lề Trái để “nhặt đạn”, nói nôm na là ăn cắp ý tưởng và ý kiến mang về sử dụng, đôi khi cũng có ghi nguồn, và phần lớn trường hợp là không hỏi ý kiến người có ý tưởng/ ý kiến đó.

Nói vậy chứ Lề Phải không hoàn toàn là… vứt đi. Lề Phải cũng có nhiều ưu điểm, tuy nhiên đó lại là chủ đề của một entry khác rồi. Còn bây giờ, chúng ta hãy cùng chờ lần khai hỏa tới đây của hai Lề nàoooooo…


--------

Vì một số lý do, tôi tạm thời không đặt các comment ở chế độ hiển thị. Mong bạn đọc thông cảm.

Wednesday, 27 October 2010

Hấp dẫn, lá cải và sức ép

(Post bài này nhân ngày nghe tin blogger Cô Gái Đồ Long bị bắt giam, đúng là “không tin được dù đó là sự thật”).

* * *

TỪ THỜI BAO CẤP TỚI THỜI @: HẤP DẪN, LÁ CẢI VÀ SỨC ÉP

* Từ những ngày phóng viên còn phải đạp xe hơn trăm cây số đến bưu điện để đánh bài gửi về tòa soạn, tới khi “lên đời” đi xe Babetta, rồi phỏng vấn qua điện thoại, e-mail, chat… Từ những ngày báo chí chủ yếu đưa tin người tốt việc tốt, “hăng hái thi đua”, “nhiệt liệt chào mừng đại hội”, tới khi có những bài báo đăng ảnh sao nọ mang bầu, sao kia ly dị… Báo chí Việt Nam đã tiến một bước xa tới ngỡ ngàng trong hơn 20 năm qua.


Làm báo từ năm 1966, từng giữ chức vụ Phó TBT các tờ “Tuần Tin Tức”, “Vietnam Courrier”… của Thông tấn xã Việt Nam, ông Trần Đình Thảo có duyên may chứng kiến sự thay đổi và phát triển của báo chí Việt Nam suốt từ thời chiến tranh, qua những năm “đêm trước Đổi Mới”, tới nay. May mắn, mà cũng có thể là không may, vì như ông nói: “Bây giờ mà trở lại làm báo như thời bao cấp thì chết. Khổ lắm, bực lắm, bức xúc lắm. Tất nhiên là cũng có cái vui…”.

Niềm vui giản đơn

Từ những năm chiến tranh, kéo dài suốt tới trước Đổi Mới, Thông tấn xã Việt Nam là cơ quan gần như độc quyền về tin tức. Số lượng báo chí ngày đó rất ít, các báo cũng không có phóng viên thường trú, nên tin tức trông cả vào “nhà phân phát” là Thông tấn xã. Vậy là các sự kiện chính trị quan trọng, như bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp, trước đó nữa trong thời chiến là tin bắn rơi máy bay, thì chỉ có phóng viên Thông tấn xã đưa, và phải tìm đủ cách để gửi từ địa phương về tòa soạn: điện báo, công văn hỏa tốc. Còn nếu khoảng cách từ địa phương tới tòa soạn dưới 150 km, thì phóng viên chỉ có nước… chịu khó đạp xe về.

Các nhà báo của Thông tấn xã, báo “Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân” ngày trước hẳn chẳng lạ lẫm gì việc đạp xe hơn trăm cây số từ sáng tới chiều để kịp gửi một bài viết mừng chiến thắng. Nhưng cũng chính vào những ngày gian khổ ấy, các tấm gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt được báo chí phát hiện, cổ vũ mạnh mẽ: Chu Văn Dị, Ngô Thị Tuyển, Nguyễn Thị Hằng, Cù Thị Hậu… Vai trò, nhiệm vụ của báo chí thời đó là cổ súy người tốt việc tốt. Dường như đó là cả một “thời của những người anh hùng”.

Thế rồi chiến tranh qua đi. Các nhà báo năm xưa, ngoài thì giờ viết lách, xuống cơ sở đi thực tế, còn phải đi xếp hàng, và không còn chuyện “khổ mà thương nhau” như thời trước chiến tranh. Không riêng các nhà báo, đó là thực tế khắc nghiệt mà cả xã hội phải trực diện. Tuy nhiên, nhiều nhà báo, nhờ ưu thế nghề nghiệp của mình, cũng hưởng chút đặc quyền, ví dụ có thể quen biết bà cửa hàng trưởng hay cô mậu dịch viên để được ưu tiên mua hàng. Ông Trần Đình Thảo nói vui: “Nhà báo thời bao cấp, những lúc được mời đi ăn liên hoan tổng kết năm ở hợp tác xã này, xí nghiệp kia, là mừng lắm. Lũ chúng tôi thường chỉ ăn tí cơm tí canh, còn các món khô như giò, chả, thịt gà luộc… thì len lén gói lại mang về nhà cho con”.

Chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong (*), từng làm Phó TBT tạp chí “Thị trường và Giá cả” giai đoạn 1983-1995, cũng kể rằng thời bao cấp, nhà báo đi đây đi đó, rất hay được cơ sở tặng cho khi thì chai nước mắm, lúc lại cân cá khô. “Như thế là quà quý lắm đấy, vì có thể đem về Hà Nội ăn dần hoặc bán lại. Kể ra đó cũng là những niềm vui nho nhỏ, giản đơn của nghề báo”.

Và nỗi niềm…

Cây bút gạo cội, tác giả Trần Đình Vân của “Sống như Anh” nổi tiếng năm nào, nhà báo Thái Duy, không giấu cảm giác buồn và nuối tiếc khi nói về “báo chí thời bao cấp”: “Không cạnh tranh. Không sạp báo – ai muốn đọc phải ra bưu điện mà mua. Nói thật là ngày ấy báo chí chẳng mấy người đọc, nên nhà báo cũng mất nghề. Tôi đơn cử như đưa tin về kỳ họp Quốc hội chẳng hạn, làm gì có tường thuật, phỏng vấn như bây giờ. Khai mạc, bế mạc, đã có Thông tấn xã đưa tin, chúng tôi chỉ việc lấy lại, hoặc lấy bài phát biểu đã duyệt kỹ của đại biểu Quốc hội. Không có nghề”. Ông trầm ngâm hồi lâu khi phải so sánh: “Bây giờ thì báo chí được viết đủ kiểu. Bây giờ người viết báo có rất nhiều việc để làm”.

Bản thân “người của Thông tấn xã”, ông Trần Đình Thảo, cũng than: “Làm báo ngày trước buồn vì kỹ thuật kém, thông tin lưu chuyển khó khăn. Có cả nỗi buồn vì sự phong tỏa thông tin. Viết về họp Quốc hội thì chúng tôi cũng chỉ đưa tin khai mạc, bế mạc ra nghị quyết. Bây giờ phỏng vấn là một thể loại báo chí, ngày xưa phỏng vấn chỉ là để xin tài liệu thôi. Hầu như không có phỏng vấn hỏi - đáp trên mặt báo, muốn phỏng vấn là phải trình văn bản có đóng dấu, ký tên. Ngày trước, làm gì có chuyện đấu tranh chống tham nhũng trên báo? Làm gì có điều tra?”.

Không đấu tranh, không điều tra, và không có cả thiên tai, mất mùa. Cùng lắm thì có tin đồng chí X đi thăm hỏi đồng bào ở tỉnh Y, nơi đang hăng hái phục hồi, tăng gia sản xuất sau đợt mưa lũ ngày trước.

Viết các tin, bài chính trị, tin bài nào cũng phải duyệt qua 4-5 cửa ải (ông Thảo gọi đùa là “vũ môn”). Đưa tin một đồng chí lãnh đạo cấp cao đi thăm triển lãm (lúc 10h sáng) thì viết xong phải đạp xe mang bài tới tận nhà riêng (2h chiều) và ngồi chờ đồng chí duyệt hoặc chỉ đạo thư ký làm việc trực tiếp với phóng viên, sửa từng từ từng câu… cho tới 5h chiều, rồi hối hả về tòa soạn xử lý - theo nghĩa là dùng nguyên bản đã sửa, không được sai một chữ.

Ảnh tư liệu (VOV/báo Thái Nguyên).

Một nền báo chí sạch bong lá cải

Tiếp câu chuyện so sánh “thời xưa, thời nay”, các nhà báo chỉ ra một đặc điểm nổi bật của báo chí trước Đổi Mới: Không đưa tin lá cải, được hiểu chung là những chuyện giật gân, có liên quan tới bạo lực, tình dục hoặc đời tư người nổi tiếng, hoặc tào lao vô bổ.

Mảng văn hóa – văn nghệ thỉnh thoảng mới có một bài như là “Nghệ sĩ Trà Giang với những kỷ niệm về Bác Hồ”. “Đời tư” lắm thì nhà báo cũng chỉ viết rằng nghệ sĩ từng là học sinh miền Nam, rất yêu mến Bác Hồ, khi đóng phim “Ngày lễ thánh” đã chủ động về vùng đạo hàng tháng trời để sống cùng giáo dân, thâm nhập, quan sát thực tế. Nhà báo Trần Đình Thảo nói về một kỹ thuật viết thời đó: “Có thể đưa các thông tin thuộc về đời tư nếu đó là chi tiết phục vụ cho việc làm đẹp thêm nhân vật. Ví dụ giữa hai điển hình học giỏi thì sẽ chọn cậu bé chăn vịt, con nhà nghèo, thay vì chọn cậu con trai ông bí thư hay chủ tịch tỉnh”.

Quả thật, báo chí những năm trước Đổi Mới hết sức nghiêm túc khi viết các bài chân dung. Chẳng hạn, người đọc báo thập niên 70-80 thế kỷ trước có thể nhớ mãi những gương mặt học sinh đoạt giải toán quốc tế từng được nhà báo Hàm Châu khắc họa chân dung, như Hoàng Lê Minh, Vũ Đình Hòa, Nguyễn Thị Thiều Hoa… Đó là những nhân vật tuyệt đẹp: yêu khoa học, ham học, chăm lao động, thương yêu gia đình, đoàn kết chân thành với bạn bè. Tuy nhiên, điều này cũng làm nên một đặc điểm chung: Mọi chân dung đều quá tròn trịa, vẹn toàn. Nhân vật nào cũng hoàn hảo, không tì vết.

So với ngày ấy, báo chí, nhất là trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, nay đã quá khác. Ông Thảo cười bảo, trước Đổi Mới, quyết là không có chuyện báo “đăng ảnh cô diễn viên bụng lùm lùm để đưa tin cô ấy có bầu, thậm chí còn khoanh cái vòng tròn vào bụng cô ta”. Tuyệt nhiên không có những tin kiểu Hồ Ngọc Hà có bầu với Cường đô-la. Xu thế lá cải hóa này, theo ông, giờ đã đến mức báo động. Tin “tào lao” đầy mặt báo. Chức năng giải trí - xưa kia là điều tuyệt đối không có ở báo chí ta - đã lên ngôi.

Tirage - nỗi lo muôn thuở

Và nỗi lo vẫn còn đó: Báo chí ngày nay phong phú hơn, vui hơn, dễ đọc hơn, đáng đọc hơn, tóm lại là hay hơn, nhưng tirage (lượng phát hành) mỗi tờ vẫn không cao hơn, vẫn chỉ ở mức 5 con số như thời bao cấp, họa hoằn mới có tờ đạt 6 con số. “Thời bao cấp, tirage phản ánh số người được quyền dùng tiền Nhà nước mua báo, được phép đọc báo. Thời nay, tirage là con số người bỏ tiền túi ra mua báo. Thời thế đã thay đổi. Nhưng vẫn không một tờ nào được phát hành tới triệu bản, đó là điều đáng buồn” - nhà báo Thái Duy nhận định.

Việc người đọc phải chuyển từ “xài chùa” sang “chi tiền túi”, trong khi mặt bằng giá báo tăng lên, có thể là một trong các nguyên nhân khiến tirage báo chí vẫn còn thấp. Ngoài ra, người ta cũng nhanh chóng chỉ ra một yếu tố quan trọng đứng sau chuyện này: sự xuất hiện của Internet. Một thống kê không chính thức cho thấy bản thân các báo in đã đưa tin trùng nhau tới 70-80%, ngay số tin bài trùng nhau đó cũng có thể được dễ dàng tìm thấy trên báo điện tử. “Điểm yếu của báo chí hiện nay là không còn những thông tin độc quyền, làm nên sức mạnh, sức hút của tờ báo” - ông Trần Đình Thảo nói. “Mà nếu có thì báo mạng cũng sẽ cóp, xào lại hết”.

Điều an ủi là hiện tượng “lá cải hóa” và “tirage sụt giảm” xảy ra không chỉ ở Việt Nam. Trong khoảng hai thập kỷ qua, sự bùng nổ của Internet và các loại hình giải trí đã khiến báo chí truyền thống khốn đốn. Một nhà nghiên cứu người Mỹ, ông Alex Jones, giải thích rằng: “Khi người ta phải lựa chọn đưa tin gì trên cơ sở cái gì thu hút khán giả nhiều nhất, chứ không dựa vào tầm quan trọng của tin tức, thì khi đó các tiêu chuẩn dành cho tin lá cải được áp dụng. Các tòa soạn báo chí nghiêm túc biến dần thành tòa soạn tin lá cải… Khuynh hướng hiện tại là lá cải hóa - nghĩa là hình thành một nền báo chí mà ưu tiên duy nhất là lợi nhuận chứ không phải là lợi ích công kết hợp với lợi nhuận”.

Xu hướng đó đang là mối nguy nan cho báo chí Mỹ, và cũng không xa lạ với Việt Nam, mặc dù nền báo chí Việt Nam mới đang trong giai đoạn chuyên nghiệp hóa, nghĩa là tách dần khỏi hoạt động tuyên truyền. Cùng một lúc, báo chí Việt Nam vừa phải chuyên nghiệp hóa vừa phải lá cải hóa.

Thế hệ những người làm báo ngày nay có lẽ vừa may mắn, vừa không may mắn. May vì họ làm báo trong một đất nước đang chuyển đổi, nơi xã hội có rất nhiều điều chưa biết, muốn biết và cần được biết, nơi nhu cầu thông tin của công chúng là rất cao. Các tờ báo luôn có nhiều khoảng trống để lấp. Các nhà báo luôn có nhiều chủ đề để viết. Nhưng không may mắn, bởi vì cùng một lúc, họ bị áp lực phải cuốn theo cả cái đà chuyên nghiệp hóa lẫn lá cải hóa của báo chí.


--------
(*) Ông Đặng Phong đã mất ngày 20-8-2010.

Sunday, 7 March 2010

CHUYỆN LÀM BÁO Ở SÀI GÒN TRƯỚC 1975

http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Van-Hoa/Lam_bao_Sai_Gon_truoc_1975/

Mỗi tháng khoảng một tuần, ông Y. chạy xe máy tới nhà in Quân Đội 2 và ngồi đó cả ngày để kiểm tra, soát lỗi bản bông của mấy tờ tạp chí do tòa soạn ngoài Hà Nội gửi vào in.

Rất thường xuyên, ông dùng bút khoanh tròn những từ tiếng Anh xen lẫn trong bài, chi chít như xôi đỗ. Từ "golfer" này phải thay bằng "tay gôn", "gôn thủ" mới là tiếng Việt. Từ "super star" này thay bằng "siêu sao". Từ "computer" này nữa, sao không viết là "máy vi tính"?

"Nhiều nhà báo trẻ bây giờ sính dùng tiếng Anh, tiếng Mỹ trong bài quá, mặc dù nhiều từ có tiếng Việt tương ứng. Có khi lại dùng từ nước ngoài kèm theo tiếng Việt, kiểu như: fan hâm mộ, nắp ca-pô…” - ông Y. nói. "Tôi nhớ báo chí Sài Gòn thời trước 75 không ai viết tiếng Việt theo kiểu "ba rọi" như vậy, mà phóng viên có lỡ viết thì biên tập viên cũng sẽ sửa ngay".

Ông Y. sống cả tuổi trẻ của mình ở Sài Gòn cũ. Ông học Đại học Văn khoa Sài Gòn, ban Anh văn, vừa học vừa đi viết nhật báo rồi chuyển qua làm cho một tạp chí văn nghệ. Còn bây giờ, ông làm biên tập viên "kiêm" sửa morat cho mấy tờ tạp chí tiêu dùng của một tòa soạn ngoài Hà Nội.

Báo chí Sài Gòn cũ có nhiều từ mà độc giả ngày nay đọc thì thấy rất cổ, "xe nhà binh", "tư thất", "tư gia"... Nhưng ngôn ngữ hồi đó thuần Việt chứ không lẫn tiếng nước ngoài nhiều như bây giờ. Còn quảng cáo thì không nhiều, có cả quảng cáo thuốc chữa lang ben, tức cười lắm” - ông Y. kể. Theo ông, ngôn ngữ chỉ là một trong rất nhiều điểm khác biệt giữa báo chí Sài Gòn cũ và báo bây giờ. Nhưng nghề báo thì bao giờ cũng vậy, là niềm vui, là nỗi buồn, là lòng nhiệt tình của tuổi trẻ và cả những giọt nước mắt.

Sinh ngữ thành tử ngữ

T.T.T., một người làm báo thời Sài Gòn cũ, hiện viết báo tiếng Việt ở nước ngoài, từng bày tỏ sự lo lắng về nguy cơ biến mất một thứ tiếng Việt mà người Sài Gòn hồi đó dùng, được thể hiện trên báo chí và văn học. Hiện nay, nhiều từ ngữ đã bị quên lãng hoặc rất hiếm được dùng như: sổ gia đình, bằng khoán nhà, gá nghĩa, giáo học v.v. Đổi lại, kho ngôn ngữ của người miền Nam sau giải phóng được bổ sung thêm rất nhiều "từ vựng": hộ khẩu, đề xuất, quyết sách, bồi dưỡng, kiểm thảo… Từ khi mở cửa nền kinh tế và Internet bùng nổ ở Việt Nam, ngôn ngữ hiện đại càng phát triển, từ mới xuất hiện chóng mặt trong mỗi lĩnh vực chuyên môn cũng như ngoài đời sống.

Những người hoài cổ có thể thấy xót xa cho một thứ tiếng Việt trong quá khứ, giờ sắp thành cổ ngữ hoặc tử ngữ. Nhưng suy cho cùng, ngôn ngữ là thế, luôn vận động và thay đổi cùng cuộc sống, cái mới sinh ra thì cái cũ phải mất đi. Tiếng Việt của báo chí Sài Gòn cũ giờ chỉ còn được dùng ít nhiều trong làng báo chí hải ngoại, đặc biệt bởi thế hệ cao tuổi. Độc giả trẻ ở Việt Nam ngày nay có thể bật cười khi đọc những câu như: “Tờ Nữu Ước Thời Báo loan tin…".

Thông tín viên và phóng viên

Ngoài văn phong, ngôn từ, báo chí Sài Gòn cũ còn rất nhiều điểm khác thời nay. Chẳng hạn về cách tổ chức. Ngoài các phóng viên chính thức, mỗi tờ nhật báo còn có một lực lượng "thông tín viên" (correspondent). Những người này cũng là ký giả, nhưng chỉ chuyên săn tin vặt. Hàng ngày, họ đạp xe (sang hơn thì chạy vélo-solex hay mobylette) đi khắp thành phố, lượm lặt những tin nho nhỏ dạng "xe cán chó, chó cắn xe"... để bán cho các báo.

Cánh phóng viên thì dường như thời nào cũng vậy, viết bài nộp tòa soạn xong là xả hơi, gặp nhau bàn chuyện nghề chuyện đời, rồi tán dóc, nhậu nhẹt. Ông Y. nhớ lại: "Làm báo giàu thì nhiều tiền, làm báo nghèo thì ít tiền. Nhiều phóng viên của các tờ báo giàu ăn chơi đế vương lắm, nhảy đầm, bài bạc, có người còn hút sách nữa. Nhưng chính vì thế nên thường không có nhà báo giàu mà chỉ có ông chủ bút là giàu thôi".

Thật ra thời đó chiến tranh nguy hiểm, phóng viên salon cũng nhiều. Vậy nên các tòa soạn mà có được phóng viên trẻ nhiệt tình, chịu khó ra vùng chiến sự để gửi tin bài về thì chủ báo “cưng” lắm. Bản thân ông Y. cũng hay tới các vùng chiến sự quanh Sài Gòn, thậm chí đến tận miền Trung, nơi được xem là chiến tranh ác liệt nhất như "Nam Ngãi Bình Phú" (Quảng Nam - Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên), để viết bài phản ánh về cuộc sống khổ cực của nông dân trong thời loạn lạc. "Hồi ấy tôi trẻ, nên nhiệt tình phơi phới, ham đi. Chứ chiến tranh bom đạn, làm phóng viên chiến trường nguy hiểm lắm. Các nhà báo phương Tây mà tôi biết đều được bảo hiểm rất lớn. Phóng viên bản xứ thì không thế".

Có lẽ đó cũng là một lý do khiến làng báo Sài Gòn cũ không có nhiều phóng viên chiến trường nổi tiếng tầm cỡ thế giới như đồng nghiệp ở AP, UPI, hay Time. Nick Út của AP (nổi tiếng với bức ảnh chụp em bé bị bỏng bom napalm) là một trường hợp hiếm hoi trong lĩnh vực báo ảnh.

Báo Sài Gòn cũ - mỗi tờ mỗi vẻ

Báo chí Sài Gòn cũ có nhiều loại. Có những tờ công khai chống chính quyền Sài Gòn tham nhũng, như Tin Sáng (chủ nhiệm là ông Ngô Công Đức, đã mất năm 2007 tại Thành phố Hồ Chí Minh), Điện Tín (cố nhà báo Chánh Trinh tức Lý Quý Chung là cây bút bình luận chính trị sắc sảo của tờ này). Họ châm biếm chính quyền kém cỏi, gọi "Tổng thống Thiệu" là "Tổng thống Thẹo", "Sáu Thẹo", hay Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn thời Johnson là "Ông già tủ lạnh", chẳng biết sợ. Những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, mục "Tin vịt nghe qua rồi bỏ" trên báo Tin Sáng đã có những bài viết trào phúng phê phán chế độ Sài Gòn, rất được độc giả ưa thích.

Ngược lại, có tờ báo chống cộng dữ dội. Và cũng có nhiều tờ trung lập, gọi là thuộc "thành phần thứ ba", "đường lối thứ ba" - kêu gọi hòa bình, hòa hợp hòa giải chung chung, không ưa gì chế độ miền Nam nhưng cũng không ra mặt chống đối. Một trong các báo có số bán ra nhiều nhất là Sống của Chu Tử, một tờ khét tiếng chống cộng. Tất nhiên, báo có lượng phát hành cao không nhất thiết là báo hay.

Dĩ nhiên là không thiếu cả những "lá cải" xanh xanh, chuyên đăng tin "xe cán chó", đâm chém, tình tiền, tù tội… được mệnh danh là báo "4T". Và không thể không kể tới một thứ "đặc sản" của báo chí hồi đó: Đã báo ngày thì phải có feuilleton (tiếng Pháp, chỉ truyện dài nhiều kỳ, đăng trên báo, sau có thể in thành sách).

Feuilleton có thể là truyện tình cảm xã hội, ly kỳ, éo le, đẫm nước mắt, đặc biệt hấp dẫn giới tiểu thương, hoặc là truyện chưởng, kiếm hiệp kỳ tình của Kim Dung. Nhà văn Việt Nam thời đó cũng có những người viết feuilleton chuyên nghiệp, như Dương Hà, Nghiêm Lệ Quân, Tùng Long... Ông L.T., một cây bút viết feuilleton thể loại dã sử, nhớ lại: "Viết feuilleton thật ra rất khó vì phải hấp dẫn, ăn khách ngay từ đầu, lại phải liên tục, hàng ngày. Có người viết đồng thời 5 feuilleton cho 5 tờ nhật báo khác nhau, đâm ra lẫn lộn, cho một nhân vật chết mấy tháng rồi lại dựng anh ta dậy. Nhà văn Sơn Nam hồi đó cũng viết feuilleton, nhưng lồng nhiều chuyện về phong tục, tập quán Nam Bộ vào, người đọc thích lắm".

Nhưng cái tên ăn khách nhất hẳn là một gương mặt ngoại quốc: Kim Dung. Ông L.T. bảo, hầu hết các nhật báo ở Sài Gòn đều tranh nhau mua, dịch và đăng tải truyện chưởng Kim Dung. Tờ nào đăng được sớm thì bán chạy lắm. Ví dụ tờ Chính Luận được nhiều người đọc không phải vì có tin tức chính trị - xã hội hay, mà vì mỗi ngày họ đều đăng truyện Kim Dung sớm nhất.

Và những nỗi thất vọng

Ở miền Nam trước năm 1975, hầu như các tỉnh không có báo riêng (báo địa phương). Toàn bộ báo chí tập trung ở Sài Gòn. Dân số trong thành phố ngày đó chưa tới một triệu. Vậy nhưng báo chí thì rất nhiều, và theo ông Y. thì báo "thường do các phe đảng hoặc các đại gia nắm, với mục đích phục vụ cho quyền lợi của đảng mình hoặc cho cá nhân thay vì nhân dân".

Vì có nhiều đảng phái chính trị tranh giành ảnh hưởng nên báo chí cũng bị cuốn vào cuộc. Có trường hợp báo chí vừa ca ngợi rùm beng một viên tỉnh trưởng người của đảng này hôm trước, thì hôm sau một tờ báo của đảng khác đã khui ra là ông ta tham ô đến cả tiền cứu trợ cho dân nghèo, nếu bị đưa ra tòa theo luật pháp của chính quyền Sài Gòn thì phải lãnh án tử hình. Phóng viên ngớ người cả loạt. Ông Y. thở dài: "Thấy mà ngán. Rút cục, nhà báo vô tình trở thành công cụ cho các đảng phái và cá nhân mà thôi".

Do kinh tế không phát triển, lệ thuộc hoàn toàn vào Mỹ, báo chí Sài Gòn hầu như không chú trọng tới mảng kinh tế hay các chính sách vĩ mô về điều hành kinh tế, chỉ nặng về chính trị, xã hội, văn nghệ, giải trí. Càng về những ngày cuối của chế độ, báo chí càng rệu rã, chia rẽ, không phản ánh hay cổ vũ được cho một lý tưởng chung nào của xã hội.

Tuy nhiên, dù sao nền báo chí miền Nam trước 1975 cũng đã làm được việc ghi lại một giai đoạn trong lịch sử của một nửa đất nước.

Những cây bút sắc sảo năm xưa giờ nhiều người đã mất: Lê Ngộ Châu, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung (Chánh Trinh)… Một số chọn con đường ra nước ngoài, làm báo bên đó, đôi ba người vẫn tiếp tục "cuộc chiến chống cộng" mệt mỏi và vô vọng. Cây viết truyện dã sử hồi nào, ông L.T., vẫn cầm bút, nhưng tuổi già đã làm sức viết của ông yếu đi nhiều.

Về phần mình, ông Y. nghỉ viết báo đã lâu. Phần lớn thời gian, ông vui chơi với cây cá cảnh, ngoài công việc biên tập kiếm sống. "Cây cá kiểng làm tôi thư thái hơn".

Nói rồi ông lặng lẽ cầm cây bút đỏ, đánh dấu những chỗ sai sót trên tập bản bông xếp ngổn ngang trước mặt. Phải làm cho xong trong buổi sáng nay để còn in, ngày kia báo ra rồi.