Thursday 14 May 2015

Tom Malinowski: “Vào TPP, lợi ích Việt Nam hưởng sẽ vượt xa rủi ro”


Chiều thứ hai, 11/5, ông Tom Malinowski, trưởng phái đoàn Mỹ tham gia Đối thoại Nhân quyền Mỹ-Việt lần thứ 19 (diễn ra tại Hà Nội trong hai ngày 7-8/5) đã dành riêng cho giới báo chí độc lập ở Việt Nam một cuộc phỏng vấn xoay quanh chủ đề “TPP, khả năng tham gia của Việt Nam và những lợi ích, rủi ro đối với Việt Nam”.

Ông Tom Malinowski là một quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Mỹ, phụ trách vấn đề dân chủ, nhân quyền và lao động. Báo chí Việt Nam vẫn thường dịch chức vụ của ông, “Assistant Secretary of State”, sang tiếng Việt là “trợ lý Ngoại trưởng”, nhưng thực ra, đó là một cương vị cao hơn nhiều so với “trợ lý”. Có thể coi như ông mang hàm tương đương thứ trưởng ở Việt Nam.

Trọng tâm là cải cách tư pháp

Đoan Trang: Câu hỏi đầu tiên xin dành cho ông là: Ông có thể thuật lại nội dung cuộc đối thoại nhân quyền giữa hai nước Hoa Kỳ và Việt Nam không?

Tom Malinowski: Về phía chúng tôi, đó là một phái đoàn rất lớn, gồm đại diện Bộ Ngoại giao, Đại diện Thương mại Mỹ, USAIDS, và Nhà Trắng. Còn về phía Việt Nam, có Bộ Ngoại giao và cả Bộ Công an tham dự.

Hai bên đã bàn về nhiều vấn đề nghiêm trọng và quan trọng, bao gồm: cải cách tư pháp, quyền tự do biểu đạt, quyền lao động, quyền của người khuyết tật, và tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Tôi muốn nói rằng đó là một cuộc thảo luận rất cởi mở, chân thành và có hiệu quả. Hai bên đã xác định rõ những gì mà phía Mỹ cho là thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền, nhưng cũng chỉ ra các mặt cụ thể cần phải được cải thiện.

Có lẽ chúng ta không có thời gian để đi vào từng khía cạnh cụ thể, vì chúng tôi đã mất tới hai ngày làm việc với chính phủ Việt Nam để có thể đề cập đến mọi vấn đề. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng có lẽ, vấn đề quan trọng nổi bật trong cuộc đối thoại là CẢI CÁCH TƯ PHÁP. Chính quyền Việt Nam đã cam kết sẽ sửa đổi luật pháp cho phù hợp với Hiến pháp Việt Nam và các công ước quốc tế. Chính quyền đã thừa nhận rằng cần phải làm nhiều hơn nữa để đạt được mục tiêu đó, và mục tiêu đó là vì lợi ích của Việt Nam.

Chúng tôi dành nhiều thời gian nói về việc triển khai cải cách tư pháp trên thực tế. Chẳng hạn, chúng tôi thảo luận rất nhiều về sửa đổi Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự. Chúng tôi cũng bàn thảo rất nhiều về một số những điều khoản gọi là “an ninh quốc gia” trong Bộ luật Hình sự - những điều khoản vốn được sử dụng thường xuyên để truy tố người dân vì đã thực thi quyền tự do biểu đạt, chỉ trích nhà nước trên mạng, vân vân. Chúng tôi bày tỏ hy vọng rằng kế hoạch sửa đổi Bộ luật Hình sự sẽ đi thẳng vào những khía cạnh quan trọng của Bộ luật này, để chính quyền có thể thực hiện được mục tiêu mà họ đã tuyên bố, là tuân thủ đầy đủ Hiến pháp Việt Nam và các chuẩn mực về nhân quyền quốc tế.

Nguồn ảnh: Asharq Al-Awsat

Lộ trình cải cách vẫn mơ hồ

Họ có đưa ra một lộ trình cụ thể nào cho việc cải cách tư pháp không? Bao giờ thì họ tiến hành sửa đổi Bộ luật Hình sự?

Chúng tôi chưa làm rõ hoàn toàn việc đó. Chúng tôi có đề nghị chính quyền Việt Nam định ra một lộ trình, và cả một kế hoạch soạn thảo luật về lập hội. Chúng tôi hỏi chính quyền dự tính khi nào làm tất cả những việc này. Cuối cùng thì Chính phủ và Quốc hội Việt Nam sẽ là nơi quyết định lộ trình, chứ đó không phải là vấn đề mà Hoa Kỳ có thể lên tiếng, bởi như thế không thích hợp. Nhưng chúng tôi nghĩ, điều quan trọng là chính quyền phải tham vấn đầy đủ khối xã hội dân sự ở Việt Nam, phải quan tâm đến những băn khoăn của họ, và đảm bảo rằng những phần quan trọng của Bộ luật Hình sự - những gì không tuân thủ triệt để chuẩn mực quốc tế - phải được sửa đổi.

“Tham vấn đầy đủ khối xã hội dân sự”. Ông nghĩ nhà nước có tính đến những tổ chức dân sự độc lập, không đăng ký, ở Việt Nam không?

Tôi nghĩ chính quyền phải lưu tâm đến các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, bất kể địa vị pháp lý của họ là gì.

Tại cuộc đối thoại nhân quyền vừa rồi, phái đoàn Mỹ có gắn những đòi hỏi về nhân quyền với việc Việt Nam và TPP không?

Việc gia nhập TPP, đối với bất kỳ quốc gia nào, đều được gắn chặt với một yêu cầu là phải tuân thủ các tiêu chuẩn đã được quốc tế công nhận về quyền lao động. Và, một trong những điều quan trọng nhất, là tiêu chuẩn về lao động và quyền tự do lập hội. Đó là một đòi hỏi bắt buộc đối với tất cả các nước muốn tham gia TPP, và cũng là một phần trong cuộc thương thảo của chúng tôi với chính phủ Việt Nam.

Một trong những điểm chúng tôi nêu rõ với chính quyền Việt Nam là: Nhiều công nhân ở Việt Nam thật ra đã lập hội rồi. Họ thực sự đang thực thi sáng kiến thành lập các công đoàn lao động ở địa phương để bảo vệ quyền của mình. Có điều họ đang làm như vậy mà không được pháp luật công nhận. Họ không được pháp luật bảo vệ. Cụ thể hơn, tất cả những gì chúng tôi đề nghị Việt Nam làm chỉ là công nhận những thực tế đã và đang diễn ra ở Việt Nam rồi. Công nhân Việt Nam cần được pháp luật bảo vệ. Chúng tôi nghĩ điều đó rất, rất có lợi cho nhà nước, vì nó củng cố quan hệ ổn định giữa công nhân và giới chủ, đồng thời cũng giúp Việt Nam vào TPP.

Ngoài vấn đề quyền lao động, Quốc hội Mỹ cũng rất quan ngại về các vấn đề nhân quyền khác ở Việt Nam. Triển vọng Việt Nam vào TPP là có thật nếu nhà nước tiếp tục có các biện pháp cải thiện nhân quyền, như trả tự do cho tù nhân lương tâm và tiến hành cải cách tư pháp.

Việt Nam sẽ gia nhập TPP sớm chứ?

Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng tôi lạc quan. Bởi vì tôi nghĩ rằng các lợi ích kinh tế, lợi ích chiến lược của việc Việt Nam tham gia TPP là lớn hơn rất, rất nhiều so với bất kỳ rủi ro nào mà nhà nước Việt Nam có thể phải đối mặt nếu họ chấp nhận các yêu cầu của TPP.


Ông Tom Malinowski trong buổi gặp các đại diện khối XHDS
"không được thừa nhận" ở Việt Nam, 6/5/2015

Để giảm nguy cơ “nhà nước thất hứa”…

Ông biết đấy, trong quá khứ, chính quyền Việt Nam có xu hướng nuốt lời hứa. Tôi không nói đó là truyền thống, nhưng nhà nước Việt Nam đã nhiều lần hứa hẹn rồi không thực hiện, mà ta có thể kể một vài trường hợp điển hình như Hiệp định Geneva 1954, Hiệp định Hòa bình Paris 1973, và gần đây nhất là hồi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Ông có nghĩ lịch sử rồi sẽ lặp lại với TPP? Có khả năng nào nhà nước Việt Nam lại thất hứa không?

Tôi muốn nói thế này: Chúng ta đều biết rằng cam kết và hứa hẹn, tất cả những cái đó chỉ là sự khởi đầu. Điều quan trọng hơn cả là thực hiện cam kết, và tôi nghĩ, mọi người đều tin tưởng rằng một khi TPP được thông qua thì sẽ có rất nhiều cơ chế để khuyến khích một nhà nước thực thi và tuân thủ các cam kết của họ.

Chúng ta không mong mọi việc sẽ dễ dàng. Thay đổi bao giờ cũng khó khăn và luôn luôn có những thế lực chống lại sự thay đổi. Nhưng chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng TPP là một cơ hội để nâng cao năng lực và hỗ trợ cho những người đã và đang nỗ lực tạo ra sự thay đổi, cải cách.

Ngoài hứa hẹn và cam kết ra thì, trong thời gian trước mắt, chính quyền Việt Nam sẽ có hành động gì cụ thể để chứng tỏ thiện ý của mình? Ví dụ, họ sẽ thả tù nhân lương tâm nào, hay là sẽ giảm án cho người nào, sẽ chấp nhận tổ chức công đoàn độc lập nào?

Bạn đang nói là “trong thời gian trước mắt”. Nhưng chúng tôi mới chỉ nói về TPP, về hiện tại, về những gì đang diễn ra thôi. Trong quá trình đối thoại, chúng tôi đã nói rất rõ, về những gì mà chúng tôi cho là luôn luôn đúng, đúng trong mọi trường hợp. Đó là: Bất kỳ hành động tích cực nào của chính quyền Việt Nam đều sẽ vô cùng có lợi cho triển vọng vào TPP, và bất kỳ hành động tiêu cực nào đều sẽ có hại.

Giới đấu tranh dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam nên làm gì để đảm bảo rằng chính quyền sẽ thực thi các cam kết TPP của họ?

Nếu Việt Nam được chấp thuận vào TPP thì sẽ có một hiệp định, với những cam kết cụ thể, đặc biệt về vấn đề quyền lao động và quyền lập hội. Tôi nghĩ, nhờ đó, người dân Việt Nam và xã hội dân sự ở Việt Nam sẽ có thể nhìn vào từng cam kết cụ thể và tuyên bố rõ rằng họ muốn chính quyền phải tuân thủ cam kết nào.

Tôi có thể khẳng định là Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tham vấn rất, rất chặt chẽ khối xã hội dân sự Việt Nam trong quá trình chúng tôi giám sát việc Việt Nam thực thi các cam kết sau khi vào TPP, nếu hiệp định kia được ký kết. Do đó, tiếng nói của những người đang đấu tranh vì nhân quyền và nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một tiếng nói vô cùng mạnh mẽ. Nó đã vươn xa ra ngoài Việt Nam, được cả thế giới lắng nghe, và sẽ tiếp tục được lắng nghe.

Hành hung blogger Anh Chí là “vô cùng ngu dốt”

Nhìn trở lại cuộc đối thoại, ông nói rằng hai bên đều xác định rõ những thành tựu Việt Nam đạt được trong lĩnh vực nhân quyền. Ông có thể cho biết cụ thể các thành tựu đó là gì không? Và cả những điều Việt Nam đã vi phạm?

Về mặt thành tựu, từ cuộc đối thoại năm ngoái tới nay, chính quyền Việt Nam đã phê chuẩn hai điều ước quan trọng về nhân quyền, đó là Công ước chống tra tấn và Công ước về quyền của người khuyết tật. Họ cũng đã trả tự do cho một số tù nhân lương tâm. Không nhiều như lẽ ra họ phải thả, nhưng cũng là đã thả một vài người rồi. Tổng số tù nhân lương tâm đang theo xu hướng giảm dần trong ba năm qua. Trong vài tháng đầu năm 2015, chúng ta gần như không thấy vụ khởi tố mới nào nhằm vào những người thực thi quyền tự do biểu đạt hay những nhà hoạt động chính trị ôn hòa. Chính quyền cũng đã cam kết sẽ sửa đổi Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự, cũng như các luật khác, cho nhất quán với tiêu chuẩn quốc tế. Đó là một số thành tựu đạt được.

Còn các vấn đề tồn đọng? Chúng tôi biết là vẫn còn rất nhiều nhà hoạt động bị sách nhiễu trên diện rộng. Hiện nay, vẫn còn rất nhiều người bị đàn áp, bị đe dọa, thậm chí bị tấn công bằng vũ lực, như chúng tôi vừa thấy sáng nay là trường hợp blogger Anh Chí. (Blogger Nguyễn Chí Tuyến, tức Anh Chí, ở Hà Nội, bị côn đồ hành hung gây thương tích, sáng 11/5 – PV).

Tôi muốn nói vụ việc của Anh Chí là một vấn đề cả từ giác độ nhân quyền lẫn chính trị: Thật là một việc làm vô cùng ngu dốt khi mà nó xảy ra đúng vào thời điểm quốc tế đang rất chú ý đến nhân quyền ở Việt Nam.

Ông nói rằng gia nhập TPP mang lại cả lợi ích và rủi ro cho Việt Nam, tuy rằng lợi ích lớn hơn nhưng vẫn là có rủi ro. Đó là các lợi ích và rủi ro gì vậy?

Lợi ích thì rõ ràng rồi. Người dân Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích kinh tế, nếu đất nước này là một thành viên của TPP. Tôi nghĩ có cả những lợi ích chiến lược khi Việt Nam là thành viên trong một cộng đồng các quốc gia mà ở đó có mặt Mỹ. Việt Nam sẽ được an toàn hơn, sẽ được công nhận tầm quan trọng cao hơn trong khu vực. Đấy là lợi ích lớn cho cả chính quyền nữa.

Về rủi ro thì, bạn biết đấy, muốn làm thành viên của TPP, đòi hỏi chính quyền phải thực hiện một số cải cách. Và có những nhân vật trong chính quyền Việt Nam cho rằng cải cách sẽ đưa đến rủi ro lớn cho đất nước, sẽ làm nhà nước mất dần khả năng kiểm soát. Nhưng như tôi đã nói, tôi tin rằng lợi ích – không chỉ cho đất nước mà cho cả chính quyền Việt Nam nữa – sẽ vượt xa rủi ro. Tôi tin những cải cách mà Việt Nam đang được yêu cầu tiến hành theo đòi hỏi của TPP sẽ giúp Việt Nam mạnh hơn, ổn định hơn, an toàn hơn, và thịnh vượng hơn. Từ giác độ lợi ích quốc gia mà nói, sẽ chỉ có lợi ích chứ không phải là một sự cân bằng giữa rủi ro và lợi ích. Thế nhưng có một số người trong chính quyền lại chỉ trông thấy rủi ro.

Theo ông, trong quá trình đối thoại và đàm phán, điều gì là điều mà chính quyền Việt Nam khó nhượng bộ nhất?

Tôi không muốn nói nhiều về quá trình đàm phán. Tôi chỉ muốn nói rằng, các yêu cầu đều đã rất rõ ràng: Tất cả các thành viên của TPP đều phải đáp ứng những đòi hỏi nhất định, trong đó, có việc tôn trọng các quyền lao động theo chuẩn quốc tế.

Do đó, mỗi thành viên TPP đều phải tự quyết định xem họ có chấp nhận các đòi hỏi đó không. Còn tôi thì tôi nghĩ những đòi hỏi ấy chỉ có ích cho chính quyền và người dân Việt Nam mà thôi. Cho nên, cuối cùng thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được một thỏa thuận cho Việt Nam vào TPP.