Sunday 15 June 2014

Ai mới đang gây căng thẳng trên Biển Đông?

Dưới đây là bài viết mới nhất của TS. Dương Danh Huy và TS. Phạm Quang Tuấn nhằm phản bác tác giả Sam Bateman – vị chuyên gia, nghiên cứu viên cao cấp của RSIS, người đã liên tục nêu quan điểm cho rằng Việt Nam nên đồng ý “gác tranh chấp cùng khai thác” với Trung Quốc, cũng như nên chấp nhận Hoàng Sa là của Trung Quốc, vì cơ sở bảo vệ chủ quyền của Việt Nam yếu hơn.

Mặc dù các lập luận của TS. Dương Danh Huy và TS. Phạm Quang Tuấn (đăng trên Eurasia Review ngày 5/6/2014) đã phản bác đầy đủ Sam Bateman, song độc giả cũng cần lưu ý rằng các quan điểm của Sam Bateman đã được một cơ quan truyền thông quốc tế lớn là CNN trích dẫn lại trong một bài xã luận của họ về vụ giàn khoan 981, đăng ngày 19/5. Ngày 11/6, CNN tiếp tục đăng bài xã luận thứ hai sử dụng các ý kiến của Sam Bateman, trong đó, ông này khẳng định Việt Nam đuối lý hơn hẳn Trung Quốc trong tranh chấp quần đảo Hoàng Sa.

* * *

ĐỐI ĐẦU TRONG VỤ GIÀN KHOAN 981:
MỐI NGUY HIỂM CỦA VIỆC ĐÁNH ĐỒNG MỌI THỨ VÀO TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN

  • Huy Duong - Tuan Pham

Mở rộng những tranh chấp trên Biển Đông – đẩy chúng vượt ra ngoài bất kỳ một vùng đặc quyền kinh tế nào mà những hòn đảo nhỏ xíu đang bị tranh chấp có thể có được – là hành động cản trở an ninh và hợp tác trong khu vực. Nhìn chung tất cả mâu thuẫn đều có thể được xử lý bằng cách áp dụng quy trình giải quyết tranh chấp của UNCLOS cho các vấn đề liên quan đến phân định ranh giới trên biển và hợp tác trong các khu vực tranh chấp.

Trong bài đáp trả bài bình luận của chúng tôi, Tiến sĩ Bateman viết: “Những yêu sách chủ quyền gay gắt, thậm chí còn thể hiện rõ ràng hơn trong cách viết của hai tác giả, đang trở nên ngày càng phản tác dụng và chẳng đi tới đâu”. Lối đánh giá vội vàng như vậy không nên có chỗ trong thảo luận khoa học, trong khi những dữ kiện thực tế và những số liệu vững chắc sẽ có ích hơn nhiều cho việc tìm ra một giải pháp hòa bình để xử lý xung đột. Trong bài bình luận trước đó của chúng tôi, chẳng có chi tiết nào có thể bị coi là “yêu sách chủ quyền gay gắt”. Ngược lại, chính ông Batman mới là người khẳng định ngay từ đầu rằng “vấn đề ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa là trọng tâm của tình hình hiện nay”, và ông đứng về phía Trung Quốc trong câu chuyện chủ quyền này, dựa trên những bằng chứng và lập luận rất đáng ngờ; ông còn đề nghị Việt Nam “chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa”, trong khi đó, bài viết hồi đáp của chúng tôi đã hạn chế đến mức thấp nhất mức độ gay gắt của những yêu sách chủ quyền mâu thuẫn nhau.

Căn nguyên của vấn đề

Bài viết trước đó của chúng tôi đưa ra các dữ kiện thực tế, số liệu, và hồ sơ của Tòa án Công lý Quốc tế và Hiệp định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhằm chứng tỏ rằng vùng đặc quyền kinh tế mà quần đảo Hoàng Sa (đang bị tranh chấp) có được sẽ không thể mở rộng đến được vị trí của giàn khoan Haiyang 981. Qua đó, chúng tôi bác bỏ quan điểm của Bateman cho rằng vấn đề ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa là trọng tâm của tình hình hiện nay, hay là “một đường biên giới hàng hải đã được đàm phán trong khu vực này thì chắc chắn sẽ xác định rằng giàn khoan dầu nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc”. Trên thực tế, chúng tôi chỉ đặt tình hình hiện nay vào đúng thực trạng của nó: Không liên quan đến tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa.

Rõ ràng, chúng tôi không phủ nhận việc đang có tranh chấp chủ quyền trong khu vực. Tuy nhiên, tranh chấp chủ quyền đối với những hòn đảo quá nhỏ, những bãi (reef) và đá (rock) thì không thể gây ra căng thẳng nghiêm trọng như chúng ta đã và đang chứng kiến trên Biển Đông. Hãy lưu ý, hoàn toàn không có căng thẳng nghiêm trọng nào giữa Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei, dù các quốc gia này đều có tranh chấp chủ quyền với nhau.

Về Biển Đông và về nguồn gốc của những căng thẳng mà chúng ta đang thấy, vấn đề là có một nước rất gay gắt trong những yêu sách chủ quyền của họ, đến mức họ không chịu công nhận Hoàng Sa là quần đảo đang tranh chấp; một nước ra yêu sách đòi sở hữu gần hết Biển Đông và thềm lục địa, chẳng đếm xỉa gì đến cả UNCLOS lẫn các dàn xếp pháp lý hay những thỏa thuận đã được đàm phán trước đây trong phân định ranh giới trên biển; một nước không ngại đơn phương khẳng định các yêu sách đó, và đã tuyên bố rằng họ không công nhận thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS cho một số lĩnh vực tranh chấp, đặc biệt là những tranh chấp liên quan đến việc diễn giải và áp dụng các điều khoản của UNCLOS để phân định ranh giới trên biển. Nước đó chính là Trung Quốc.

Chúng tôi đánh giá cao và ủng hộ mong muốn của Bateman là sẽ có sự hợp tác nhiều hơn trên Biển Đông; nhưng dụng ý của Bateman nhằm biện hộ cho việc Trung Quốc đơn phương triển khai một giàn khoan nước sâu khổng lồ trong khu vực chồng lấn về vùng đặc quyền kinh tế, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến Điều 74 của UNCLOS, thì chính xác là đang đi ngược lại mong muốn đó. Ngoài ra, chúng tôi phản đối quan điểm của ông ta cho rằng “Các nước có chung đường biên đều tránh hợp tác, vì sợ là nếu hợp tác thì, cách này cách khác, họ có thể sẽ phải nhân nhượng về yêu sách chủ quyền của mình”. Theo chúng tôi, trở ngại lớn nhất cho những hợp tác như vậy, là việc Trung Quốc từ chối, không chịu công nhận rằng đang có tranh chấp chủ quyền xoay quanh quần đảo Hoàng Sa và xoay quanh yêu sách chủ quyền mập mờ của họ đối với vùng biển và thềm lục địa tạo thành đường chữ U – một phần dựa vào cái lập trường rất bất công là phân bổ vùng đặc quyền kinh tế cho các hòn đảo nhỏ xíu, đang bị tranh chấp, và một phần dựa vào việc lạm dụng  khái niệm “các quyền (có từ trong) lịch sử”. Cần phải nhấn mạnh rằng, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Malaysia đã có những chương trình hợp tác trong các khu vực có yêu sách chủ quyền chồng lấn, chưa giải quyết được, và họ có thể làm được việc này vì họ đều không có những yêu sách chủ quyền biển đảo gây phẫn nộ như Trung Quốc.

Tàu Trung Quốc bắn vòi rồng vào tàu Việt Nam, ngày 28/5. Ảnh: CNN

Con đường phía trước

Mặc dù các tranh chấp biển đảo trên Biển Đông rất phức tạp, nhưng chúng không phải là nằm ngoài khả năng của các tòa án quốc tế hay là các cuộc đàm phán có thiện ý nhằm giải quyết mâu thuẫn. Trên thế giới từ trước đến nay, những tòa trọng tài và những cuộc thương thuyết về biên giới trên biển đã cung cấp cho tòa án và các nhà đàm phán có thiện ý rất nhiều tiền lệ để họ đi tới. Giá như Trung Quốc không tuyên bố rằng họ bác bỏ mọi thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS, thì các tòa án quốc tế hẳn đã có thể tách phần lớn những tranh chấp biên giới biển trên Biển Đông khỏi tranh chấp chủ quyền các hòn đảo, và tháo gỡ chúng, để chỉ còn lại một số vùng tranh chấp. Đấy sẽ là một điểm khởi đầu tốt cho sự hợp tác cả trong khu vực tranh chấp lẫn khu vực không tranh chấp.

Một tác hại nữa của việc Trung Quốc bác bỏ thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS, là họ khiến cho tòa án mất thẩm quyền áp dụng quy định của Điều 74 về thiện chí và hợp tác vào những vùng biển có yêu sách chồng lấn về vùng đặc quyền kinh tế, vẫn còn treo đó chưa giải quyết được – mà đó là điều mà tình hình trên Biển Đông hiện nay đang cần một cách tuyệt vọng.

Bateman viết: “Hai tác giả kết luận bài viết phê bình của họ dành cho tôi bằng tuyên bố rằng tôi “có thể có đóng góp tích cực hơn cho hòa bình và hợp tác bằng cách khuyến khích Trung Quốc chịu khó tuân theo các thủ tục giải quyết tranh chấp đã được cụ thể hóa trong UNCLOS”. Tôi cũng có thể nói như thế về Việt Nam chứ?”. Có thể ông Bateman sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Việt Nam đã chấp nhận thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS khi họ phê chuẩn Công ước này vào năm 1994 mà không bảo lưu điều khoản nào, không như Trung Quốc công khai bác bỏ triệt để phần thủ tục nói trên vào năm 2006.

UNCLOS là nền tảng cho sự hợp tác và trật tự trên các biển và đại dương của thế giới, nhưng chắc chắn nó có những khía cạnh cần làm rõ. Thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS đảm bảo rằng việc diễn giải và áp dụng UNCLOS là công bằng và tuân theo những chuẩn mực khách quan; do đó, nó là điều quan trọng sống còn để Công ước có thể vận hành trên thực tế. Không có thủ tục này, những nước thành viên của UNCLOS có thể dễ dàng biến cái nền tảng UNCLOS thành trò hề.

Vì lý do đó, chúng tôi đề nghị Tiến sĩ Bateman và các học giả quốc tế có quan tâm đến công bằng, hợp tác và trật tự trên các biển và đại dương của thế giới, hãy cùng chúng tôi kêu gọi Trung Quốc hạn chế bớt các yêu sách chủ quyền biển đảo của họ, để các yêu sách đó phù hợp hơn với những dàn xếp pháp lý và những thỏa thuận đã được đàm phán trước đây trên thế giới (đề nghị này không nhất thiết đòi hỏi một sự phân định ranh giới cuối cùng), và chấp nhận thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS cho vấn đề Biển Đông.