Saturday 27 August 2016

Nỗi buồn của biển

Khoảng 7h sáng hôm sau (19/8), chúng tôi tới xã Kỳ Lợi, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Cảnh tượng ngay lập tức đập vào mắt tất cả mọi người đến nơi đây, là khu kinh tế Vũng Áng rộng mênh mông chạy dọc chân trời, với những ống khói trắng-đỏ đang nhả khói vào mây. Đó là ban ngày, còn xế chiều, khi Vũng Áng lên đèn, bạn sẽ thấy hàng chuỗi hàng chuỗi đèn điện hồng xen lẫn với ráng hồng của bầu trời. Đến đêm tối thì Formosa thật sự trở thành một “vương quốc” sáng rực ánh điện, đèn lấp lánh, chi chít như sao sa, tương phản với bên kia đường là đồng cỏ và khu nhà dân tiêu điều, tối mò. Nếu bạn vào xóm Cũ, nơi 183 hộ dân vẫn cương quyết trụ lại, không chịu di dời, thì sẽ thấy cảnh tượng còn hoang tàn nữa, với những đống gạch vụn, những nhà cửa đã bị đập bỏ chỉ còn trơ cột kèo, khung sắt…

Nói Formosa Vũng Áng đã trở thành một “vương quốc”, một xứ sở tự trị, cũng không sai. Dân địa phương phản ánh, kể từ tháng 5/2014 sau khi xảy ra bạo loạn Vũng Áng (mà cho đến giờ, thủ phạm thực sự - kẻ giật dây tất cả - là ai, vẫn là một bí mật), công nhân viên người Đài Loan, Trung Quốc không ra khỏi khuôn viên Formosa nữa. Họ ở luôn bên trong, nơi có đầy đủ siêu thị, trung tâm mua sắm, khu ăn uống, thể thao, giải trí… và nhà máy nhiệt điện riêng để cung cấp hệ thống điện riêng. Bao xung quanh, ngăn với bên ngoài là dãy tường dài hàng kilomet, trên có gắn mảnh chai, sành, và nhất là một hàng rào điện. Nội bất xuất, ngoại bất nhập, người ra vào Formosa phải có thẻ quẹt, mà sau 15 ngày không tác động gì vào thẻ thì nó sẽ tự hủy.

Nhân viên làm việc bên trong không được phép quay phim, chụp hình. Đó là lý do chúng tôi không có được bức ảnh nào về Formosa nhìn từ phía trong, dù đã gặp một số người từng làm nhân viên cho các nhà thầu của tập đoàn này. Tất nhiên, vẫn luôn tồn tại khả năng cho việc những nhân viên người Việt của Formosa bí mật tuồn dữ liệu ra bên ngoài, tuy rất nguy hiểm cho họ. Nguyên tắc “bảo vệ nguồn tin” cần được các blogger, các nhà báo công dân tuân thủ chặt chẽ.

Trong khuôn viên Formosa, có hàng chục tòa nhà cao tầng, được cho là văn phòng cũng như nhà ở của nhân viên. Tại một tòa nhà như thế, nằm sát tường rào, gần mặt đường, người ta thấy cả dàn radar trên mái. Một chiến sĩ đóng quân trên địa bàn Kỳ Anh, với chuyên môn về tác chiến điện tử, nói với chúng tôi rằng tầm nhìn của radar có thể vươn tới 80 hải lý (khoảng 145 km). Người lính này cũng bảo, ở trong tầm nhìn của radar, “mình làm bất cứ cái gì, Formosa cũng thấy hết”. Nhưng ngược lại, chẳng một ai biết họ đang làm gì trong cái vương quốc của họ.

Hoàng Thành ngạc nhiên: “Thế là mình phải chịu thế à?”.

Cậu lính trẻ đáp: “Thì phải chịu chứ sao. Không ai được vào trong đó hết. Chắc khi nào có chuyện gì cần giúp đỡ thì Formosa sẽ nhờ, nhưng cũng chỉ công an là được phép vào bên trong thôi, bộ đội thì không”.

Mấy người dân địa phương nhiệt tình cho chúng tôi ngồi vào thuyền thúng, chèo ra nơi đậu ghe, rồi đưa ghe ra sát khu vực cảng Sơn Dương và kè đá chắn sóng của Formosa. Sơn Dương là cảng nước sâu, độ sâu 11m, nước một màu xanh thẫm, không thấy đáy. Chiếc ghe trở nên rất mỏng mảnh. Sóng to, dâng cao cả mét, bọt biển liên tục bắn vào ống kính. Đình Hà và Hoàng Thành cứ phải loay hoay đứa chụp ảnh, quay phim, đứa che chắn nước, và cố để không làm ghe mất thăng bằng. Vẫn theo “tiêu chuẩn Mỹ”, lẽ ra không ai được lên thuyền mà không có áo phao. Nhưng ở đây là Việt Nam; cả ba đứa chúng tôi đều im tiệt, coi như không có chuyện gì xảy ra. Đến chỗ này, vào thời điểm này mà còn hỏi ngư dân về áo phao và trang thiết bị an toàn lao động thì thật là lố bịch.

Công trình cảng Sơn Dương vẫn đang được xây dựng giữa biển, gần đảo Sơn Dương. Còn trên bờ, bãi cát vắng hiu hắt, không một bóng người. Hàng chục con thuyền phủ vải nằm trơ. Cách đây mới nửa năm, nơi đây còn vui lắm. Mỗi chiều khi tàu cá về, bà con ào ra đón, hò nhau kéo ghe lên bờ cát, có trông thấy mới hiểu thế nào là niềm vui “cá bạc đầy khoang”. Trẻ con thì ríu rít chơi đùa, đá bóng.

Bây giờ khác rồi.

Xế chiều, khi ghe của chúng tôi trở về, một vài phụ nữ ở trong xóm trên bờ cũng chạy ra đón, giúp kéo ghe lên bãi. Nhưng trong khoang… trống huếch trống hoác. Không có gì cả. Và chúng tôi cảm thấy đắng ngắt: Vẫn tiếng hò ấy, vẫn những giọng nói chào đón ấy, vẫn những động tác quen thuộc ấy của dân biển ngàn đời nay, song có cái khác hoàn toàn, là không còn niềm vui “thuyền anh mãi về cho cá bạc đầy khoang” (*) nữa. Những nụ cười trở nên vô cùng gượng gạo.

Sao biển buồn đến thế?

Đến lúc này tôi mới phát hiện có một vết rách ở bàn chân phải, và nó đang rỉ máu, sưng lên. Vài tiếng sau thì nó nhiễm trùng, sưng húp, mỗi lần lỡ chạm phải quai dép đều đau điếng người. Không hiểu vì sao chỉ từ một chỗ trầy xước mà nó thành ra như vậy. Đình Hà kết luận chắc nịch: “Hoặc do nước cống Hà Nội, hoặc do nước biển nhiễm chì, bác chọn đi!”.

Lại báo hại người dân địa phương chở tôi ra trạm xá, để y sĩ – soeur Vân – sát trùng và băng vết thương lại. Soeur nói nước biển ở đây rất bẩn, độc, nhiều người lặn về thấy khó thở, nhức đầu, ít nhất cũng thấy mệt mỏi.

“Thôi thì chắc cũng như nước cống Hà Nội” – tôi nghĩ.

Chúng tôi ăn chiều cùng bà con. Mâm cơm có trứng, rau, một đĩa tôm và một bát canh đầu cá. Ai cầm bát đũa lên cũng nói như phân trần: “Không phải tôm, cá Vũng Áng đâu nhé”, ý là bảo chúng tôi đừng lo phải ăn hải sản nhiễm độc. Nhưng làm gì còn tôm cá nào ở vùng này nữa mà lo. Cả hai thứ đều là đồ nhập khẩu. Chỉ biết thở dài khi ở giữa xứ làm nghề biển, ở ngay sát bờ biển, mà phải ăn hải sản nhập từ nước ngoài.


CÒN NỮA

---------

(*) Lời bài hát nổi tiếng của dòng nhạc đỏ, "Tình ta biển bạc đồng xanh", do nhạc sĩ Hoàng Sông Hương (thân sinh ca sĩ Mỹ Lệ) sáng tác năm 1973.

Cảng Sơn Dương trong quá trình xây dựng.

Và nhìn ra cảng, từ trong bờ, là những chiếc thuyền bỏ không.

Doanh nghiệp mà cũng lắp radar.

Friday 26 August 2016

Cá chết và nỗi ám ảnh về tương lai

7h tối 18/8, bão số 3 đổ về đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội mưa trắng trời. Tôi chống nạng xuống tầng một, thấy nước… cống hòa nước mưa đã ngấp nghé dềnh đến nửa đùi, tất cả các xe máy đậu bên tường khu tập thể đều ngập bánh trong làn nước đen. Rác trôi lều bều.

Yên chí rằng không có nhân viên an ninh hay dân phòng nào dại gì đội mưa giờ này để theo dõi “phản động”, tôi lội ra đường gọi taxi. Trời mưa vốn là dịp để taxi hốt khách, nhưng cũng lại là những lúc rất nguy hiểm cho tài xế, vì gió mạnh, mưa xối xả làm mờ kính, rất khó nhìn đường, cây đổ bất ngờ, và người đi xe máy thì phóng nhanh vượt ẩu. Phải mất tới 45 phút tôi mới gọi được một chiếc taxi, và mất thêm một tiếng vòng vèo nữa mới đến được nhà Đình Hà, đón thằng em. Hai chị em hối hả ra bến xe buýt, mua vé vào Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Tội nghiệp thằng em lỉnh kỉnh máy móc, ba-lô. Đồ gì nó cũng phải cầm hết, vì bà chị hai tay hai nạng, không tự mang được cái gì.

“Chuột bạch” Hoàng Thành thì đến tối hôm sau mới vào tới nơi, lúc bão đã tan, nên thoát được trận mưa thối đất thối cát.

Mưa suốt đêm, gió ào ào thổi bên ngoài, cửa kính ô-tô nhòe nước. Nếu theo “tiêu chuẩn Mỹ”, thì chắc những chuyến xe như thế này là rất nguy hiểm, người dân được khuyến cáo không nên đi đâu cả. Nhưng đây là Việt Nam, nơi tính mạng con người vốn bị coi là chẳng đáng giá (ông tướng công an Nguyễn Văn Hưởng còn răn là nhân quyền Việt Nam khác nhân quyền Mỹ kia mà). Và chúng tôi cũng muốn tranh thủ vào khu vực Vũng Áng ngay lúc mưa bão, để tránh bị những kẻ mà ai-cũng-biết-là-ai theo dõi, quấy rầy. Thật ra, theo dõi hay bắt về đồn ngồi cả ngày đều quá nhẹ; chỉ phiền nhất là những kẻ đó hay có thú bẻ tay, giật lấy máy ảnh, điện thoại chụp hình và máy ghi âm của chúng tôi, thậm chí cả laptop, rồi đập máy, hoặc cướp sạch thẻ nhớ. Mỗi lần như vậy là coi như mất hàng chục triệu đồng; đồ càng chuyên nghiệp càng mất nhiều tiền, chưa kể nỗi đau xót lớn nhất là mất tư liệu.

Chúng tôi vào Vũng Áng còn vì một lý do nữa: Đã bỏ lỡ dịp ở đó vào những ngày căng thẳng nhất của thảm họa cá chết (cuối tháng 4, đầu tháng 5 năm 2016), là nhà báo, chúng tôi không muốn và không thể tiếp tục ở lì Hà Nội để nghe thông tin qua nền truyền thông méo mó của Việt Nam thời mạt. Một khối truyền thông đầy định kiến và những quan niệm sai lệch, chỉ cam phận hết minh họa đường lối chính sách lại làm công cụ cho các phe phái đánh đấm. Kèm với hai thứ đó là những thông tin vỉa hè, cái mà người ta truyền miệng, rỉ tai cho nhau, kể cả tán oang oang ngoài quán cóc cũng có, sặc sụa mùi thuyết âm mưu, kiểu như: Dự án Formosa rồi sẽ bị mua lại bởi một bọn còn kinh khủng hơn bọn Formosa Đài Loan bây giờ, bọn này có đủ lực chi phối cả Bộ Chính trị cơ, lúc đấy dân Việt mới chết đấy!

Đến khi người nghe hỏi: “Bọn ấy là bọn nào?”, thì câu trả lời luôn là: “Tuyệt mật. Không nói được đâu”.

Tôi khá khó chịu mỗi khi bị những thông tin kiểu đó lọt vào tai, và luôn phải cố gắng để kiềm một câu muốn bùng khỏi miệng: “Cảm ơn vì tất cả các thông tin tuyệt mật. Tôi chỉ thắc mắc, tại sao những thông tin đó lại là tuyệt mật, tại sao chúng không được công bố trên báo chí Việt Nam?”.

Nhưng biết đâu họ đúng? Cũng như điều này luôn luôn đúng: Ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ lúc nào, nếu báo chí bị bóp nghẹt, thì thông tin vỉa hè sẽ lên ngôi. Đừng trách người dân “bầy đàn”, “cảm tính”, “không hiểu biết”.



Thursday 25 August 2016

Bị ung thư khi làm việc ở Formosa

Người dân phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh hầu như không ai không biết đến câu chuyện thương tâm của “cặp vợ chồng làm cho Formosa, cả vợ cả chồng đều bị ung thư”.

Anh là Lê Văn Lâm (SN 1969) và chị là Nguyễn Thị Hương (SN 1970). Gia đình anh chị hiện sinh sống tại xóm Ngâm, tổ dân phố Thắng Lợi, phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Anh bị ung thư vòm họng, còn chị bị ung thư vú. Có điều đáng chú ý là cả hai vợ chồng trước đây đều từng làm nhân viên bảo vệ, trông coi một số trong hàng trăm kho hóa chất của tập đoàn Formosa ở Hà Tĩnh. 

Anh Lâm kể, anh chị vốn là người phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, sinh ra, lớn lên và thành gia thất đều ở đây. Cuộc sống của người dân nơi đây gắn chặt với biển, họ chỉ làm các nghề liên quan tới biển như đi khơi, lặn, làm muối, buôn bán hải sản. Bản thân anh cũng theo tàu đánh cá nhiều năm, hoặc làm công nhân xây dựng bên Lào… Cho tới năm 2012, Formosa bắt đầu triển khai dự án ở Việt Nam, thì hai vợ chồng cùng vào làm cho một nhà thầu của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh. 

Chẳng ai biết chính xác tên của nhà thầu đó là gì; hai anh chị Lâm-Hương cũng chỉ biết đến họ với vài thông tin ít ỏi: Đó là MC5 - một công ty của Trung Quốc, chủ lao động làm việc trực tiếp với anh chị là một người đàn ông Trung Quốc tên Lưu Hán, tầm 35-36 tuổi. Công ty có phiên dịch tiếng Trung, tuy nhiên Lưu Hán cũng nói được tiếng Việt, hình như trước kia từng lấy vợ là người Việt Nam, sống ở Hà Nội, sau bị vợ bỏ. 

Và tất cả thông tin chỉ có thế. Hai anh chị làm nghề coi kho cho MC5. Công việc của hai vợ chồng là trực đêm, trông coi một số container hóa chất, bốn ống khói và hai ống thoát nước (?) của MC5 trong khuôn viên Formosa, từ 6h tối mỗi ngày đến 6h sáng hôm sau. Lương tháng của anh là 9 triệu đồng, của chị 6 triệu. Cả hai đều không ký hợp đồng lao động, và thậm chí không có giấy tờ nào để chứng minh rằng anh chị từng là nhân viên làm việc bên trong Formosa. Họ cũng có đóng 200.000 đồng Việt Nam cho MC5, khoản đó được gọi là “bảo hiểm lao động”, nhưng chỉ chi trả cho những người bị tai nạn (ngã, va chạm…) trong lúc làm việc. Giấy tờ về khoản tiền này, MC5 cũng cầm cả, anh chị không được giữ.

Khoảng tháng 6/2015, chị Hương thấy đau ngực, khó chịu trong người, đi khám thì phát hiện bị ung thư vú. Chị báo lại Lưu Hán. Ông này, theo lời kể của anh chị, chỉ “à thế à mấy câu rồi lờ đi”, coi như không có trách nhiệm. Chị nghỉ việc, ở nhà chữa bệnh. Được vài tháng thì anh cũng thấy ù tai, váng đầu … và bị chẩn đoán là mắc bệnh ung thư vòm họng. Tới đây thì MC5 xong phần công trình ở Việt Nam và “rút đi đâu không rõ”, anh tiếp tục làm cho Formosa tới tháng 5/2016 thì buộc phải nghỉ vì sức khỏe đã quá yếu.

Từ khi phát hiện bệnh đến nay, anh Lâm và chị Hương đều đã qua vài đợt hóa trị; chị phải cắt bỏ phần ngực bên trái. Hai vợ chồng nằm nhà cả ngày, mỗi tháng lại đến Bệnh viện Trung ương Huế 1-2 tuần để tái khám và điều trị. Nhiều đêm, anh chị mệt và đau không ngủ được, nhưng cái đau về thể xác còn không bằng nỗi đau và lo buồn cho tương lai của ba đứa con. Con gái học lớp 10 đã bỏ học để ở nhà chăm sóc cha mẹ, còn cậu con trai đang học đại học ở Vinh cũng định bỏ nhưng anh chị không chịu, cứ động viên con cố gắng nốt ba năm nữa.

Chi phí chữa bệnh cho mỗi người giờ đã lên tới cả trăm triệu, trong khi hai vợ chồng không còn nguồn thu nhập nào. Tất cả chỉ trông vào số tiền dành dụm được từ trước tới nay, và tiền giúp đỡ của những người hảo tâm. Hội liên hiệp phụ nữ phường Kỳ Phương có một lần quyên góp tiền của người dân địa phương, giúp đỡ anh chị được hơn 23 triệu đồng; nhưng “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”, đến giờ hai vợ chồng thực sự chỉ ngồi nhà, chờ đợi... Mỗi lần có khách đến, anh chị ra nói chuyện với vẻ mặt thẫn thờ, lo lắng, và cứ nói được vài câu là chị lại rân rấn nước mắt: “Con người ta còn được đi học, con mình thì bỏ học vì cha mẹ…”.

Nhà thầu “MC5” nào đó mà anh chị từng làm việc, giờ đã rút về nước hoặc chuyển đi đâu không rõ. Formosa Hà Tĩnh thì càng chẳng một lời hỏi thăm – có lẽ họ cũng không biết đến hai người lao động bị ung thư này. Hai vợ chồng đã làm việc gần bốn năm trời bên trong Formosa, tiếp xúc với nhiều hóa chất, thậm chí như anh Lâm khẳng định, với nhiều lần rò rỉ hóa chất, mà không có một thứ gì để tự bảo vệ mình: Không quần áo bảo hộ, không trang thiết bị bảo hộ, không hợp đồng lao động, không một khoản phụ cấp nào ngoài lương, không bác sĩ, không kiểm tra sức khỏe, khám chữa bệnh, không một chút thông tin cảnh báo hay hướng dẫn nào từ chủ lao động, và đương nhiên, không công đoàn.

Được hỏi, có nghĩ tới chuyện kiện Formosa để đòi bồi thường thiệt hại không, anh Lâm ngần ngừ: “Cũng khó, vì bảo hiểm lao động của họ chỉ chi cho những ai bị tai nạn, như là rớt, ngã hay va chạm gì đó thôi, còn chúng tôi bị bệnh”. Và, cũng không thể chứng minh căn bệnh ung thư của hai vợ chồng là do công việc coi kho hóa chất ở Formosa trực tiếp gây nên…

Đến giờ, có lẽ ai cũng đã thấy khoản tiền 500 triệu USD mà Formosa hứa bồi thường cho Việt Nam chẳng đủ bù đắp thiệt hại cho một thôn làm nghề biển ở Hà Tĩnh. Mà đấy là còn chưa kể tới thiệt hại của hàng chục nghìn dân địa phương không làm nghề biển, trong đó, có những người như vợ chồng anh Lâm - chị Hương này. Những người lao động không hợp đồng, không bảo hiểm, không thông tin… Ai bảo vệ quyền lợi cho họ? 


* * *

Bạn đọc trong và ngoài nước, có lòng hảo tâm muốn giúp đỡ anh Lê Văn Lâm và chị Nguyễn Thị Hương, xin gửi về địa chỉ: 

Anh Lê Văn Lâm, xóm Ngâm, Tổ dân phố Thắng Lợi, phường Kỳ Phương, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. 

Hoặc về tài khoản của con trai anh chị là: Lê Công Tuấn, số tài khoản 711AC1006393, ngân hàng Viettin Bank.

Tuesday 9 August 2016

Một câu hỏi dành cho những người ngoài phong trào dân chủ

Lâu nay, vẫn thường có một thể loại bài viết với tựa đề chung là “một câu hỏi dành cho phong trào dân chủ”, “câu hỏi lớn dành cho các nhà đấu tranh dân chủ”, “giải pháp nào cho công cuộc dân chủ hóa”… Tóm lại, đã từng có nhiều câu hỏi đặt ra cho những người hoạt động dân chủ, ví dụ: Làm thế nào để thu phục nhân tâm, thu hút quần chúng? Đã thực sự có kết quả và lan tỏa chưa? Đã có ảnh hưởng tới ai/cái gì chưa? v.v.

Các câu hỏi này thường chỉ được đặt ra cho các nhà dân chủ mà thôi, không đặt ra cho ai khác. Cứ như thể những người đấu tranh dân chủ ở Việt Nam đang là những chính khách chuyên nghiệp ở một xứ sở dân chủ, có thể đi lại, viết lách, vận động, thuyết phục và kêu gọi quần chúng công khai, thoải mái vậy.

Nay chỉ xin có một câu hỏi, duy nhất một câu thôi, dành cho những người ở ngoài phong trào dân chủ, tức là những người chưa có hoạt động nào để tạo ra hoặc thúc đẩy một sự thay đổi tích cực nào của môi trường chính trị trong nước.

Bây giờ, giả sử có hai xã hội:

- (1) Một xã hội giống hệt như Việt Nam từ năm 1986 trở về trước, tức là: Nhà nước thích làm gì thì làm, muốn ra luật gì thì ra, muốn bắt ai thì bắt, muốn tịch thu tài sản của ai thì tịch thu, muốn xử tử ai thì xử tử. Chẳng ai biết nguyên nhân, tình trạng và hậu quả các việc nhà nước làm, coi như “phải ai nấy chịu”, ai không may mà có việc dính tới “cửa quan” thì cứ tự xác định là chết thôi. Ngày đó, số lượng tử tù oan (như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh…) chật kín nhà tù, nhưng không có chuyện thân nhân vật vã kêu oan và cộng đồng ồn ào đòi xem xét lại tiến trình điều tra và bản án như thế này, ai chết thì chết. Và, tuyệt nhiên không có một cái đám gọi là “các nhà dân chủ” như bây giờ. Bạn cứ việc im lặng mà sinh ra, lớn lên, đóng thuế nuôi cái nhà nước mà bạn chẳng biết nó đang và sắp làm gì, và cố đừng để dính dáng với nó, nếu không, phần thiệt sẽ luôn thuộc về bạn; chẳng phải đầu cũng phải tai.

- (2) Một xã hội như bây giờ, tức là: Vẫn tồn tại cái nhà nước đó, và bạn vẫn phải đóng thuế cho nó. Nhưng lại có thêm một đám gọi là “bọn dân chủ”. Bọn này rất ồn ào, to mồm, và cứng đầu cứng cổ. Gần như bạ cái gì nhà nước làm, chúng cũng phê phán, chỉ trích, và gọi đấy là “phản biện”. Chính sách gì của nhà nước, chúng cũng vặn vẹo, rồi la ó phản đối, ném đá, đến nỗi đã có nhiều người mô tả bọn chúng là cái lũ chỉ biết “auto chửi”: Chúng chửi từ vụ “vòng ngực dưới 72cm không được đi xe máy”, tới “người đi xe máy phải cầm theo giấy tờ chính chủ”, đến “CMTND phải có tên cha mẹ”, tới chuyện xử oan những Hải, Chưởng, Mạnh, tới chuyện “thay thế” cây cổ thụ tán lá xum xuê bằng cây mỡ thanh thanh, rồi chuyện nhận 500 triệu USD và tiếp tục tạo điều kiện cho Formosa làm ăn ở Việt Nam, v.v. đủ thứ. Cậy có Internet và mạng xã hội nên chúng nó bắt đầu liên kết lại, chúng nó hùa nhau “tát nước theo mưa”, chửi hội đồng Đảng và Nhà nước. Chúng nó chẳng còn coi Đảng và Bác ra cái quái gì. Đời tư của chúng thì be bét, toàn một lũ dâm đãng, trai gái lăng nhăng. Đã thế, nghe đâu chúng còn nhận tiền nước ngoài để sống phè phỡn nữa.

Chú ý là, trong cả xã hội (1) và (2), quan chức của cái nhà nước kia đều hủ bại, dâm ô như nhau, ăn tiền trong nước và nước ngoài như nhau, nhưng bạn không được chửi. Ở xã hội (1), nếu bạn chửi thì bạn chết; còn ở xã hội (2), bạn có thể nghe “bọn dân chủ” chửi thay, có gì bọn nó chết.

Ở xã hội (2), bạn vẫn phải đóng thuế nuôi nhà nước, nhưng không phải đóng một xu thuế nào cho “bọn dân chủ”. Chưa bao giờ bạn phải đóng thuế cho “các nhà dân chủ” cả.

GIỮA HAI XÃ HỘI ĐÓ, BẠN CHỌN SỐNG Ở XÃ HỘI NÀO, (1) hay (2)?

Đoàn xe của Thủ tướng CP đi trong khu phố đi bộ ở Hội An, 
chiều tối 8/8/2016.
Ngoài "bọn dân chủ", không người dân thường nào 
có ý kiến gì với Thủ tướng về hành vi gây rối này.

Photo courtesy of Street Life.

Thursday 4 August 2016

Quan chức EU sốc với phiên tòa xử Ba Sàm

Bà Lê Thị Minh Hà, vợ nhà báo độc lập Nguyễn Hữu Vinh (tức blogger Ba Sàm), vừa trao cho Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU Delegation) tại Hà Nội một bức thư 6 trang, phân tích và cập nhật cho EU về phiên tòa sơ thẩm xét xử ông Nguyễn Hữu Vinh và cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy, cũng như các diễn biến liên quan kể từ sau phiên tòa tới nay.

Đầu tiên là các sai phạm về tố tụng trong quá trình xét xử. Gia đình của cả ông Vinh lẫn cô Thúy đều đã gửi đơn “xin” vào dự phiên tòa xử thân nhân họ, lá đơn đầy đủ về mặt nội dung, hình thức cũng như kịp trong thời hạn quy định; song chẳng hề nhận được phản hồi nào từ tòa. Vào ngày xử (23/3), chỉ có bà Hà và bà Thuyên (mẹ cô Thúy) là “được” tòa cho vào dự. Tất cả những thân nhân khác, gồm cả anh chị em ruột, đều bị chặn ở ngoài.

Bên cạnh đó, các nhân chứng không được vào. Đơn từ của họ, gửi từ trước để đề nghị được vào dự phiên tòa, cũng không được đếm xỉa đến.

Ngoài ra, còn hàng trăm người dân bị chặn giữ ở cổng tòa. Một số trong đó, chẳng hạn TS. Nguyễn Quang A, luật gia Nguyễn Đình Hà – vốn là hai ứng cử viên đại biểu Quốc hội độc lập – bị công an bắt cóc trong nháy mắt khi họ đi lẻ, tách khỏi đám đông. Cả hai bị công an vu cho tội “gây rối trật tự công cộng”. Ba ứng viên ĐBQH khác là Nguyễn Kim Môn, Nguyễn Thúy Hạnh, Đặng Bích Phượng không bị bắt nhưng sau đó đều nhận được thư “mời” làm việc vì liên quan đến hành vi “gây rối trật tự công cộng”.

Lá thư của bà Hà cũng vạch rõ: Trung bình, Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội xét xử 10 vụ một ngày. Tuy nhiên, hôm 23/3/2016, tất cả các phiên xử khác đều bị đình lại, Tòa chỉ tập trung vào vụ Ba Sàm. Sân tòa, phòng xử án dày đặc công an và sinh viên các trường đại học an ninh, cảnh sát.

Các luật sư bào chữa bị tòa cấm mang điện thoại di động và máy tính vào phòng xét xử. Tuy nhiên, cũng trong khi đó thì tòa lại cho phép người của Viện Kiểm sát cầm theo điện thoại di động, máy tính và sử dụng thoải mái. Cách đối xử đó không chỉ vi phạm trắng trợn nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong quá trình xét xử, mà thực sự còn gây khó khăn đáng kể cho các luật sư bảo vệ ông Vinh và cô Thúy, khi mà mọi tài liệu, hồ sơ của họ đều được lưu trong điện thoại và máy tính.

* * *

Chỉ có bốn quan chức quốc tế “được phép” vào bên trong và theo dõi phiên tòa qua màn hình tivi từ một phòng riêng. Trong phòng xử án, chỉ toàn là công an chìm, nổi, ngoài ra cũng thừa rất nhiều ghế trống. Thế nhưng trước đó, Bộ Công an Việt Nam đã từ chối gần như tất cả các quan sát viên quốc tế (đến từ các đại sứ quán), lấy lý do “không đủ chỗ ngồi”.

Đương nhiên, tòa không cung cấp dịch vụ phiên dịch cho bốn quan sát viên quốc tế. May mắn là họ đã có sự… tự chuẩn bị từ trước. Tuy thế, đường hình và đường tiếng của tivi rất không tốt, âm thanh liên tục bị ngắt quãng, nhất là vào những lúc luật sư và bị cáo trình bày. Mặc dù vậy, những gì được chứng kiến cũng đủ để các quan sát viên quốc tế nhận thấy, luật sư không có cơ hội được trình bày các luận điểm bào chữa; tòa thường xuyên từ chối tranh tụng và ngắt lời luật sư mà chẳng vì lý do gì.

Đặc biệt, các quan khách quốc tế cũng chú ý đến việc phiên tòa hoàn toàn không có nhân chứng và các công tố viên (đến từ Viện Kiểm sát) thì ngồi im lặng cả buổi.

Bà Lê Thị Minh Hà cho EU biết, sau phiên xét xử, trong vòng bốn tháng qua bà đã hai lần làm đơn xin thăm gặp chồng, nhưng trại giam không cho, chỉ nói là “đang xem xét” đơn của bà. Bà được biết ông Nguyễn Hữu Vinh có gửi về nhà 5 lá thư. Song cả 5 lá thư đều không tới tay gia đình.

Cả quan chức EU lẫn quan chức Đại sứ quán Mỹ đều cho rằng việc biệt giam ông Nguyễn Hữu Vinh và cô Nguyễn Thị Minh Thúy, tước bỏ mọi sự tiếp xúc của họ với bên ngoài, đã đủ cấu thành hành vi tra tấn.

Những thông tin về phiên tòa đã được Phái đoàn EU tại Việt Nam chuyển về Nghị viện châu Âu; cơ quan này vào ngày 8/6 vừa qua ra một nghị quyết về tình hình nhân quyền Việt Nam, trong đó họ “lên án việc kết tội và xử án nặng đối với các nhà báo và blogger như ông Nguyễn Hữu Vinh và cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy”.

Một trong vô số phiên tòa lịch sử, để đời của an ninh Việt Nam.
Ảnh: Thao Teresa.